'Giữa cuộc đời cao tiếng hát du dương'

Phân tích từng thành tố tạo nên các tác phẩm âm nhạc bất hủ của Văn Cao, nhận định nhạc của ông giàu chất văn thơ và tính hội họa, nhà lý luận, phê bình Nguyễn Thị Minh Châu đã làm rõ một Văn Cao là tượng đài của người thơ - người họa - người nhạc trong lịch sử văn học, nghệ thuật Việt Nam thế kỷ XX.

Trong lịch sử văn học, nghệ thuật Việt Nam thế kỷ 20 có một tượng đài người thơ - người họa - người nhạc mang tên Văn Cao. Người nhạc trong nhân vật đa tài ấy từ những năm 40 đã được quảng đại quần chúng biết đến nhiều hơn cả, nên cái danh “nhạc sĩ” luôn đính kèm tên ông ngay từ thời trai trẻ đến mãi về sau, khi ông ít viết nhạc và chỉ chuyên tâm với thơ và họa.

Nếu thơ ông đầy hình ảnh, tiết tấu và âm điệu (có bài còn đậm chất điện ảnh), thì nhạc của ông lại giàu chất văn thơ và tính hội họa (có bài cũng đậm chất sân khấu-điện ảnh). Sự thâm nhập và tương hỗ giữa thi ca nhạc họa trong ngôn ngữ biểu hiện là điều hết sức tự nhiên ở con người đa tài này. Cũng nhờ cái đa tài thiên phú đó mà tác giả từ lúc còn ở tuổi thành niên đã là một trong những nhân vật mở lối thông đường cho các dòng chảy khác nhau: tình khúc và hành khúc.

Nếu thơ ông đầy hình ảnh, tiết tấu và âm điệu (có bài còn đậm chất điện ảnh), thì nhạc của ông lại giàu chất văn thơ và tính hội họa (có bài cũng đậm chất sân khấu-điện ảnh).

Nhà lý luận, phê bình âm nhạc Nguyễn Thị Minh Châu

Ở tình khúc lãng mạn, mạch trữ tình được khởi nguồn ngay từ bài hát đầu tay Buồn tàn thu của tuổi mười sáu, mười bảy, lai láng trong chùm bài hát tiền chiến - Thiên Thai, Suối mơ, Trương Chi, Cung đàn xưa, Thu cô liêu, Bến xuân… Nét trữ tình lãng mạn không mất đi trong hùng ca, cũng không ngừng lan tỏa trong những bài hát kháng chiến, từ đoản khúc xinh xắn Làng tôi đến trường ca hoành tráng Sông Lô, rồi lại mênh mang với Mùa xuân đầu tiên - bài hát mà hai mươi năm sau ngày tác giả ra đi người đời mới nhận ra vẻ sang trọng thanh tao đẹp như “tiếng hát cuối cùng của thiên nga”.

Ở hành khúc cách mạng, chất hào hùng bừng lên từ loạt bài ca yêu nước tuổi mười tám đôi mươi - Gò Đống Đa, Thăng Long hành khúc…; dồn nỗi cùng cực riêng hòa vào những phẫn uất chung của người dân nước Việt để xuất thần với Tiến quân ca. Khí phách kiên hùng ấy lại tiếp tục hun đúc các hành khúc trước và trong hai cuộc kháng chiến: Chiến sĩ Việt Nam, Bắc Sơn, Tiến về Hà Nội, Thanh niên toàn quốc, Người công an thân yêu, Hành khúc công nhân toa xe, Tổ quốc tôi

Văn Cao còn viết nhạc không lời. Song khuôn khổ bài viết không quá 10 trang chỉ có thể chạm tới phần nào những giá trị liên quan tới mảng ca khúc của ông.

1. Lời ca

Tác phẩm âm nhạc của một người thơ - người họa luôn giàu ý thơ và hình ảnh, trước hết ở lời ca, nhất là lời của tình ca. Nhân vật chính trong tình ca là Em, dù có bài không xuất hiện một từ “em” nào cả.

Em bước ra từ truyền thuyết, điển cố, tích cổ hay một cõi mơ nào đó. Em trong tình cảnh lẻ loi của câu chuyện Chinh phụ ngâm đêm ngồi đan áo vấn vương nhớ thương chàng (Buồn tàn thu); trong hình hài tiên nữ đàn hát khúc bồng lai trên cõi Đào Nguyên khiến hai chàng Lưu Nguyễn quên đường về dương thế (Thiên Thai), trong bóng dáng giai nhân tương tư tiếng hát huyền thoại của chàng Trương (Trương Chi). Em mang vẻ đẹp phụ nữ nửa đầu thế kỷ 20: thẹn thùng đôi mắt như dáng thuyền soi nước (Bến xuân), “gót hài khai hoa, mắt huyền lưu xuân, dáng hồng thơm hương” (Cung đàn xưa). Em đẹp như mơ, kể cả khi có thật trong đời vẫn xa vời như người tình mộng tưởng trong mối tình đơn phương.

Nội tâm cũng như ngoại cảnh bao quanh nhân vật chính đều mang sắc thái buồn nhiều hơn vui. Cứ bâng khuâng, chập chờn, chơi vơi, lãng đãng, bơ vơ, cô liêu, nao nao, khát khao, tương tư, nhớ nhung, mong chờ…; rồi lại bẽ bàng, tê tái, ai oán, não nùng, mê cuồng, u hoài, nức nở, khóc than… Người buồn cảnh cũng buồn theo: đêm mùa thu chết, lệ mùa rơi lá, bến nước tiêu điều… Mượn cảnh tả tình, gửi tình vào cảnh: “Nhờ bóng chim uyên, nhờ gió đưa duyên” (Buồn tàn thu). Những gió - sương - chim - bướm - hoa - lá - cây - rừng - trăng - trời - mây - mưa - sông - suối vừa hợp thành bức tranh phong cảnh nên thơ, vừa tô thêm vẻ lãng mạn cho những câu ca mang hơi hướng văn phong cổ. Lời bài hát đẹp như bài thơ:

“Đò trăng cắm giữa sông vắng Gió đưa câu ca về đâu?

Nhìn xuống đáy nước sông sâu Thuyền anh đã chìm đâu!

Từng khúc nhạc xa vời

Trong đêm khuya dìu dặt tiếng tơ rơi Sương thu vừa buông xuống

Bóng cây ven bờ xa mờ xóa dòng sông.”

(Trương Chi)

Văn Cao.

Sông nước là hình ảnh thân thuộc với Văn Cao, người mang mệnh Đại Hải Thủy. Nhiều tên sông đã đi vào lời ca: Bạch Đằng Giang, Nhị Hà, sông Thương, sông Cấm, sông Lô, sông Hồng… Thuộc hành Thủy mang đặc tính nước, lại là nước đại dương, ông cũng luôn đưa hình ảnh biển lớn ngàn trùng sóng vào lời ca.

Hình tượng nước đa dạng như chính bản chất của nó, như chính con người Văn Cao - mềm mại, uyển chuyển, tinh tế, hiền hòa, bao dung, nhưng cũng tự do, phóng khoáng, kiên cường, quyết liệt. Trong cõi mộng là nước ngọc tuyền lấp lánh; là nước reo, suối hát (Thiên Thai, Suối mơ, Bến xuân, Trương Chi) và có cả nước mắt “ai oán khúc ca cầm châu rơi” (Cung đàn xưa). Trước kẻ thù thì nước dậy sóng căm hờn, sông sôi máu thù quyết đánh trả cho chúng sập cầu trôi đầy sông (Sông Lô, Hò kéo gỗ Bạch Đằng giang, Thăng Long hành khúc).

Nước dạt dào tình quê hương và tình người trong hình ảnh “bóng cau với con thuyền một dòng sông” (Làng tôi), “sông nuôi dân thiên thu đã hòa mạch máu bao người” (Sông Lô), “dòng sương sớm long lanh” (Tiến về Hà Nội), “khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông” (Mùa xuân đầu tiên)...

Nước còn mang nghĩa bóng: được ví như nước là dòng “nhạc tựa suối về” (Đường dây qua bản Mèo), là “suối than trôi dưới đáy sâu, sâu hơn đáy biển khơi” (Ta đi làm con suối), cả vạt nắng trên đồi cũng “như nước trôi trên dòng sông” (Tình ca trung du).

Còn một hình tượng xuất hiện khá dày trong lời ca, đó là âm nhạc, có lúc hữu hình với đàn, phách, phím, dây…; có lúc vô hình với hồn cầm, cung thương, cung nam… Người nhạc hẳn phải ưa vẽ cảnh sắc bằng âm thanh rồi, nào là tiếng nhạc, tiếng tơ, tiếng loa, tiếng trống chiêng, tiếng chuông nhà thờ; nào là tiếng ca, tiếng hát, tiếng hú, tiếng hét, tiếng thét, tiếng khóc, tiếng reo cười, tiếng hoan hô, tiếng hò khoan, tiếng hò dô ta…

Không thể không nhắc tới mùa thu, bởi thu xuyên suốt sự nghiệp ca khúc của ông, từ bài đầu tiên “nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng” (Buồn tàn thu, 1940) đến bài cuối cùng “vào một ngày mùa thu sáng láng” (Tình ca trung du, 1984). Rất nặng lòng với thu - mùa ông chào đời và cũng là mùa ông từ giã cõi đời, cứ như thể thu là mùa của riêng ông, cứ như thể chính ông là chàng Trương Chi cất “tiếng ca ru mùa thu” (Thiên thai) và từng mượn thu để thổ lộ tình yêu với vạn vật: “Ta yêu thu, yêu thu, yêu mùa thu” (Thu cô liêu).

Còn một mùa tuy xuất hiện không nhiều, nhưng đầy ý nghĩa và đa cảm xúc, đó là xuân. Cung đàn xưa gợi lại giấc mộng chàng Trương “buồn như lúc xuân sắp tàn”. Bến xuân bồi hồi khắc khoải những rung động tuổi xuân của tình đầu chớm nở. Mùa xuân đầu tiên đánh dấu sự tái hợp của đất nước sau giai đoạn đằng đẵng chia cắt thành hai chiến tuyến, cũng là sự tái sinh ở một nhạc sĩ trải qua chừng ấy năm câm lặng lại cất tiếng ngợi ca đời. Điều gì khiến con người vốn trầm tư lại càng khép kín hơn trong khúc đời oan nghiệt bỗng lại cất tiếng ca? Chính là bởi một “mùa bình thường” sau bao năm bất thường lần đầu tiên trở lại là mùa đoàn tụ với đúng nghĩa của nó, để “từ đây người biết yêu người”.

Văn Cao có biệt tài họa lại không chỉ phong cảnh thiên nhiên vắng vẻ, mà cả tranh cổ động về đề tài sử thi hoặc cảnh lao động sinh hoạt đời thường.

Nhà lý luận, phê bình âm nhạc Nguyễn Thị Minh Châu

Văn Cao có biệt tài họa lại không chỉ phong cảnh thiên nhiên vắng vẻ, mà cả tranh cổ động về đề tài sử thi hoặc cảnh lao động sinh hoạt đời thường. Đây tiền cảnh là những con sóng Bạch Đằng chắn lối bao ức vạn quân Nguyên tràn tới phía xa xa (Hò kéo gỗ Bạch Đằng Giang), là những tráng sĩ trên chiến mã vung gươm ra sa trường (Chiến sĩ Việt Nam). Còn đây “dân tưng bừng chặt tre phá cầu, cùng lập chiến lũy đào hầm sâu” (Làng tôi), “người người qua gánh lúa, nón nghiêng nghiêng cười ai” (Ngày mùa) và cảnh sầm uất vui hát ca của dân buông lưới đắp nhà trên bến Then (Sông Lô). Tiếp nữa là toàn cảnh thời khắc lịch sử Hà Nội rợp cờ sao đón mừng đoàn quân tiến vào năm cửa ô (Tiến về Hà Nội), là ngày sum họp mẹ Việt Nam đón đàn con trở về nước mắt sưởi ấm vai con (Mùa xuân đầu tiên).

Vậy là trong những bức tranh hoàn toàn khác nhau, chàng trai trẻ Văn Cao thả mình giữa hai dòng chảy - tình ca và hùng ca, khi hướng nội vào tâm tư cá nhân, khi hướng ngoại hòa vào số đông dân chúng. Càng về sau càng vắng dần những giai nhân, tiên nữ hay Mỵ Nương, không còn nữa những Lưu - Nguyễn, Trương Chi hay một “tôi” si tình. Cái tôi cá thể nhường chỗ cho đám đông, cho chúng ta. Em và anh trong kháng chiến khác xa thời tiền chiến, không đan áo không đàn sáo hát ca, mà “súng tì tay anh đứng, em ngừng liềm trông sang” (Ngày mùa).

Vai chính trong tranh cổ động thuộc về quần chúng để biểu trưng cái hùng cái mạnh tập thể: “Đoàn quân Việt Nam đi” (Tiến quân ca); “bao chiến sĩ anh hùng” (Chiến sĩ Việt Nam); “trùng trùng quân đi như sóng, lớp lớp đoàn quân tiến về” (Tiến về Hà Nội); “bao công nhân tiền phong đưa nhân dân vùng lên” (Ca ngợi Hồ Chủ tịch… Và ngày càng dồn dập các danh từ số nhiều: đoàn quân du kích, ngàn chiến sĩ, bao tay liềm, dân quân, người người, nhân dân, đội ngũ, chúng tôi những thợ lò…

Nổi bật giữa dòng chảy hùng ca là niềm tự hào dân tộc, ý thức công dân và ý nguyện nối tiếp truyền thống ông cha. Tinh thần quyết tử ngùn ngụt trong ngôn từ tàn khốc quyết liệt. Cùng những “xác, thây, mồ chôn, xương máu…” là cảnh “lầm than, đau thương, khốn cùng, căm hờn, hận thù…”. Cùng những “giáo, mác, tên, gông, xích, liềm, súng, gươm, đe, búa, trái phá, lưỡi lê…” là khí thế “chiến đấu, xông pha, vùng lên, xung phong, đập tan…”. Không ít lần trong lời ca vang lên tiếng hô hào: “Tiến lên! Đi lên!” và cả khẩu hiệu: “Vinh quang nhân dân Việt Nam!” (Ca ngợi Hồ Chủ tịch). Lúc này, lời lẽ ngôn từ đã chuyển vẻ đẹp thi ca thành sức mạnh vũ khí, còn thi sĩ-nhạc sĩ Văn Cao đã trở thành chiến sĩ.

2. Âm nhạc

Nếu phần lời nổi bật bởi sự giao thoa nghệ thuật hội họa và văn thơ, thì phần nhạc cho thấy sự kết hợp hai truyền thống Tây và ta. Từng có nhận xét: nhạc Văn Cao khá Tây! Quả thực ông không hề mượn một làn điệu dân ca nào, nhưng những tiếp nhận từ phương Tây đã được chuốt lại theo thẩm âm Việt, đan kết hoặc xen kẽ với những nét đặc trưng của nhạc cổ Việt để chuyển tải một tâm hồn thuần Việt. Có thể thấy sự kết hợp đó ngay từ cái nhìn bao quát về thể loại và hình thức âm nhạc.

Văn Cao góp phần không nhỏ cho sự định hình thể loại trường ca trong âm nhạc, cũng như trong thơ hiện đại Việt Nam.

Nhà lý luận, phê bình âm nhạc Nguyễn Thị Minh Châu

Văn Cao góp phần không nhỏ cho sự định hình thể loại trường ca trong âm nhạc, cũng như trong thơ hiện đại Việt Nam, với Sông Lô là một trong những đỉnh cao của thể loại quy mô này. Ngoài ra còn một số thể loại cần ghi nhận vai trò của ông, đó là hành khúc với nhiều bài hát mang ý nghĩa lịch sử, là valse với các ca khúc trữ tình: Thu cô liêu, Cung đàn xưa, Ngày mùa Mùa xuân đầu tiên.

Về cấu trúc, Văn Cao có sự chuyển biến dần từ những thử nghiệm đầu tiên phát triển tự do theo bản năng đến ý thức về cấu trúc khúc triết kiểu Tây, rồi không dừng ở khuôn khổ bài bản theo lý thuyết phương Tây mà luôn hướng tới tính linh hoạt trong lối phát triển chiều ngang đặc thù của nhạc cổ truyền Việt Nam.

Cấu trúc linh hoạt đã xuất hiện ngay từ những bài trữ tình nổi tiếng đầu thập niên 40. Rất gần với thể loại ballade, có bài vừa tiếp nhận từ phương Tây kết cấu cân đối vuông vắn có nhắc lại trong khuôn khổ đoạn nhạc, vừa phát triển liên tục nét nhạc mới và xét về tổng thể thì các đoạn luôn đổi mới được nối tiếp khá tự do tựa như các trổ trong dân ca (Buồn tàn thu, Thiên Thai, Trương Chi). Đồ sộ nhất là trường ca Sông Lô gồm sáu đoạn như những khúc sông luôn mới mẻ do thay đổi tốc độ, nhịp điệu, điệu tính, trạng thái, tính cách âm nhạc. Được ưu ái trong tình khúc, cấu trúc linh hoạt còn lan sang cả hành khúc, đây cũng là một trong những yếu tố “Việt hóa” thể loại hành khúc phương Tây.

Sự kết hợp hai truyền thống Tây và ta còn được thấy rõ hơn khi đi sâu vào những yếu tố chính trong ngôn ngữ âm nhạc của Văn Cao: điệu tính và điệu thức, âm vực và cung quãng, nhịp điệu và tiết tấu, đường nét giai điệu và thủ pháp phát triển tuyến nhạc.

Ý thức pha trộn màu sắc ở người có con mắt hội họa được bộc lộ rất sớm. Đơn giản nhất là sự tương phản trưởng-thứ giữa hai điệu tính cùng tên ở các tình khúc: Thiên Thai, Trương Chi, Suối mơ… Phức tạp nhất là Sông Lô với sơ đồ hòa thanh phong phú, trong đó có chuyển điệu giữa hai giọng cùng hoặc khác tên, có lúc còn vượt khỏi mối quan hệ điệu tính họ hàng gần gũi.

Điệu trưởng mang màu sáng tươi vui luôn là lựa chọn cho hành khúc, còn điệu thứ ngả sang tông màu tối u buồn thường gắn với tình khúc. Một sự trùng hợp: mấy bài đầu tay những năm 40-42 đều viết ở giọng rê thứ, mà rê thứ vốn được các nhạc sĩ thời đầu tân nhạc rất ưa dùng với màu sắc phảng phất âm điệu Xuân nữ.

Đáng chú ý là điệu tính trưởng-thứ luôn được luân phiên với điệu thức ngũ cung. Lối tiến hành giai điệu tránh bán âm thường làm cho thang bảy âm của điệu tính trưởng-thứ mang dáng dấp của sự kết hợp thang năm âm của hai điệu thức ngũ cung. Loạt bài rê thứ: Buồn tàn thu, Hò kéo gỗ Bạch Đằng Giang, Thiên Thai đều được hòa trộn với các điệu d-f-g-a-c và d-e-g-a-c. Gần như toàn bộ đoạn đầu của Tiến quân ca thuộc thang âm b-c-d-f-g11. Hơn nửa bài Công nhân Việt Nam nằm trong thang âm f-g-a-c-d. Toàn bộ bài Đường dây qua bản Mèo không vượt khỏi năm âm c-d-e-g-a.

Điệu thức ngũ cung và những quãng đặc trưng đã tạo nên những nét nhạc mang hơi hướng dân ca. Có thể cảm nhận nét khỏe khoắn của câu hò “dô ta” và vẻ đưa đẩy “ý a” trong Hò kéo gỗ Bạch Đằng Giang. Thoáng chút âm điệu oán da diết trong Gửi má thân yêu. Lại thêm đôi nét gợi nhớ Inh lả ơi của miền núi phía Bắc trong Đường dây qua bản Mèo.

Văn Cao. (Ảnh: Nguyễn Đình Toán)

Vậy là sự pha trộn những yếu tố thuộc hai truyền thống Đông-Tây được bộc lộ rất rõ ở đường nét giai điệu. Một mặt, bài hát “khá Tây” bởi những biến âm, những bước rải theo hợp âm ba, hoặc nét nhạc fanfare họa theo tiếng kèn hiệu lệnh. Mặt khác, giai điệu lại luôn ưu ái các quãng đặc trưng ngũ cung: 4, 5 và 7.

Một đặc thù của hành khúc phương Tây là âm hình tiết tấu “chấm-giật” được trưng dụng trong cả loạt hùng ca. Bên cạnh đó không thể bỏ qua một âm hình tiết tấu rất Việt là nghịch phách (contre-temps) và đảo phách (syncope). Tiết tấu nghịch đảo có mặt trong ca khúc trữ tình và cả hành khúc. Vì thế những từ cuối câu trong hành khúc tưởng như luôn được nhấn vào phách mạnh đầu nhịp, lại có lúc vẫn bị đẩy sang phách yếu như trong câu mở đầu Tiến quân ca.

Giai điệu thường được phát triển theo cách: câu sau nhắc lại vài nốt đầu câu trước, hoặc giữ nguyên âm hình tiết tấu câu trước. Mô tiến giai điệu trên một âm hình tiết tấu là thủ pháp phát triển chủ đạo của khá nhiều bài. Dễ dàng tìm ra nét nhạc được “đay lại” trên cung bậc khác: “bao công nhân tiền phong” Ngợi ca Hồ Chủ tịch, “chúng ta ươm lại hoa” - Tiến về Hà Nội, “từ đây người biết quê người” - Mùa xuân đầu tiên.

Thí dụ 1:

Nhà Lý luận, phê bình âm nhạc Nguyễn Thị Minh Châu.

3. Mối tương quan giữa nhạc và lời

Thành công của một bài hát còn tùy thuộc vào mối quan hệ tương hỗ giữa nhạc và lời. Khi nhạc theo lời, tuyến giai điệu luôn tuân theo dấu giọng. Chuỗi âm trùng được hình thành trên những từ có dấu giọng cùng độ cao: “ngựa phi nơi xa kia nghe súng vang bên trời điệu kèn rộn ràng” và “bừng nghe dư âm mênh mông khúc anh hùng ca reo nơi biên cương” (Chiến sĩ Việt Nam).

Khi lời nhường nhạc, giai điệu được phép tự do chuyển động trên hư từ, chẳng hạn như nguyên âm “u” trong: Đàn chim Việt, Không quân Việt Nam, Bài ca chiến sĩ hải quân. Giai điệu càng thêm độc lập phóng khoáng nhờ những nét luyến láy kiểu dân ca. Một từ có thể kéo dài trên đôi ba nốt nhạc (Trương Chi, Đàn chim Việt…), có lúc dấu luyến còn bao trùm lên tới chín nốt (Gió trên biển về).

Lúc này, giọng hát trở nên khá gần gũi với cách diễn tấu nhạc cụ. Tính khí nhạc tiềm ẩn trong đường nét giai điệu đã tạo thêm đất diễn cho ca sĩ. Cách sử dụng dấu lặng đôi chỗ cũng có thể được coi là dấu hiệu của tư duy khí nhạc. Dấu lặng xen giữa các chuỗi âm trùng tạo nên nét nhạc kèn hiệu (motif fanfare) kêu gọi lòng tự hào truyền thống trong Thăng Long hành khúc. Dấu lặng làm đứt quãng hơi thở hoặc bước đi của người thương binh trong Ngày mai sáng hồng; ngắt vụn tuyến giai điệu như họa theo tiếng mưa nhỏ giọt hay tiếng nấc nghẹn ngào trong Trương Chi

Thí dụ 2:

Nói đến tính khí nhạc không thể bỏ qua nét nhạc dạo đầu. Nhiều bài từ thập niên 40 đã có vài nhịp nhạc dạo với giai điệu riêng dẫn dắt vào phần hát: Thiên Thai, Bến xuân, Buồn tàn thu, Sông Lô, Trương Chi, Bài ca chiến sĩ hải quân.

Nhờ tiềm tàng tính khí nhạc, bài hát của Văn Cao còn được trình diễn như tác phẩm không lời: Sông Lô, Ngày mùa… Ngoài Tiến quân ca với vai trò quốc thiều (tấu nhạc không lời) còn nhiều hành khúc cũng được chuyển soạn cho dàn nhạc giao hưởng hoặc dàn kèn quân nhạc nghi lễ trong các chương trình kỷ niệm sự kiện lớn: Chiến sĩ Việt Nam, Bắc Sơn, Tiến về Hà Nội, Công nhân Việt Nam... Đặc biệt, Sông Lô Mùa xuân đầu tiên với phiên bản chuyển soạn cho độc tấu piano, guitare hoặc hòa tấu dàn nhạc được biểu diễn thường xuyên không những trong nước, mà còn xuất hiện ở sân khấu quốc tế với hai nữ nghệ sĩ piano trẻ là cháu ngoại của tác giả.

4. Giá trị tác phẩm

Nhiều ca khúc của Văn Cao đã trở thành bài ca đi cùng năm tháng bởi giá trị lịch sử và giá trị nghệ thuật. Giá trị lịch sử ở chỗ không chỉ khắc họa sự kiện lịch sử đất nước, mà còn in dấu những bước đi đáng ghi nhận của lịch sử nhạc mới Việt Nam. Giá trị nghệ thuật ở chỗ kết hợp sáng tạo cách biểu hiện của các loại hình nghệ thuật khác nhau, cũng như các truyền thống âm nhạc khác nhau, đạt tới tính thẩm mỹ cao mà vẫn giữ được tính quần chúng, vừa có hiệu quả xã hội đương thời vừa có sức sống bền lâu. Âm nhạc của ông đã và sẽ còn truyền cảm hứng, năng lượng cho các thế hệ khác nhau. Năng lượng ấy có thể cảm nhận mỗi khi ta nghiêm trang đặt tay lên ngực cất tiếng hát: “Đoàn quân Việt Nam đi…”.

Nhiều ca khúc của Văn Cao đã trở thành bài ca đi cùng năm tháng bởi giá trị lịch sử và giá trị nghệ thuật. Giá trị lịch sử ở chỗ không chỉ khắc họa sự kiện lịch sử đất nước, mà còn in dấu những bước đi đáng ghi nhận của lịch sử nhạc mới Việt Nam.

Nhà lý luận, phê bình âm nhạc Nguyễn Thị Minh Châu

Di sản ca khúc của nhạc sĩ Văn Cao không đồ sộ về số lượng mà rất đặc sắc và đa sắc: lãng mạn và bi tráng, mượt mà và gân guốc, giản đơn và hoành tráng, khái quát và cụ thể, cổ thi và hiện đại, thoát tục siêu thực và cũng lại rất thực, rất đời. Sự độc đáo, hấp dẫn ở ông có lẽ bắt nguồn từ biệt tài sáng tạo nghệ thuật mang tính “liên minh”: nhạc đầy chất thơ, thơ giàu tính nhạc, và trong cả hai đều bắt gặp tư duy hội họa. Cũng như với thơ và họa, nhạc của ông không thiếu những khai mở khám phá. Với sức sáng tạo vô bờ và tư tưởng tiên phong, “người đi dọc biển” Văn Cao đã luôn bị hấp dẫn bởi những “lối cát chưa có dấu chân”12.

Bên cạnh tính hội họa, tính văn học còn cần kể đến tính trình diễn, có những bài rất gần với hoạt cảnh sân khấu hay những thước phim thời sự xen kẽ các cảnh sắc và trạng thái khác nhau, vừa có ý nghĩa sâu xa vừa mang tính giải trí cao. Phải chăng đây cũng là dấu hiệu đi trước thời đại, vượt khỏi cái thời mà chức năng giải trí của âm nhạc gần như bị tước bỏ hoàn toàn.

Không chỉ một lần âm nhạc của Văn Cao đã đi trước thế sự. Nhờ trực giác nhạy bén và trí tưởng tượng siêu phàm, ông đã tiên đoán sự kiện lịch sử và còn miêu tả chi tiết một cách tài tình cảnh tượng tương lai.

Trước cách mạng công khai xuất hiện chủ yếu là cờ búa liềm chứ chưa phải cờ đỏ sao vàng, cho đến tháng Tám năm 1945 quyết định chọn quốc kỳ mới được thông qua, nhưng cờ đỏ sao vàng đã phấp phới bay trong Tiến quân ca từ năm 1944.

Cũng từ giữa thập niên 40 ông bắt đầu viết về các lực lượng vũ trang nhân dân khi ấy còn quá non trẻ: du kích (Bắc Sơn), bộ binh (Chiến sĩ Việt Nam), pháo binh (Sông Lô), trong đó một số binh chủng còn chưa hề tồn tại: không quân và hải quân được thành lập năm 1955, tức sau mười năm kể từ lúc ra đời các hành khúc Không quân Việt Nam Bài ca chiến sĩ hải quân (1945).

Sông Lô (1947) được viết trong giai đoạn phòng ngự mà đã mang tinh thần tổng phản công, báo trước sắp bước sang giai đoạn mới của cuộc kháng chiến. Tiến về Hà Nội (1949) rộn ràng trong quang cảnh tả thực ngày tiếp quản Thủ đô (1954). Khúc khải hoàn dự báo tương lai ấy từng bị chỉ trích là “lạc quan tếu”. Tác giả chỉ im lặng, không một lời thanh minh, cứ để mọi quy chụp thiển cận ác ý tự biến đi khi giấc mơ âm nhạc đi vào đời thực.

Hàng chục năm sau, ông mới bộc bạch và vô tình đã để lại lời nhắn nhủ quý giá cho hậu thế: “Mình không viết ra thì sau này ai biết đâu cái suy nghĩ của thằng nghệ sĩ trước những sự kiện trọng đại của đất nước, của dân tộc khi đưa vào tác phẩm nó khó khăn, lao tâm khổ tứ, nó đòi hỏi đến tài năng, sự tiên cảm nghệ sĩ là thế nào?”13.

Bức ảnh ghi lại khoảnh khắc giữa Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhạc sĩ Văn Cao do nhiếp ảnh gia Nguyễn Đình Toán chụp (Ảnh: Nguyễn Đình Toán)

Linh cảm được sự kiện đất nước, dường như ông còn dự cảm trước cả số phận mình. Không ít lời ca vô tình đã “vận” vào quãng đời lận đận vì cái án vô hình Nhân văn-Giai phẩm. Trong nhiều năm nhạc của ông không được hát và ông đã gần như ngừng viết ca khúc. Chàng Trương tài ba mà cô đơn trước những định kiến xã hội, mà nghẹn tắt tiếng ca tiếng đàn: “Nhạc ơi thôi đàn” (Trương Chi). Bao tiếc nuối cho một thân phận người tài bị ruồng bỏ: “Giờ còn mong chi người hát theo đàn/ Giờ còn mong chi hợp cánh hoa tàn" (Cung đàn xưa). Song, không như Trương Chi tuyệt vọng tìm đến cái chết, Văn Cao đã vượt qua mọi gian truân, vẫn kiêu hãnh “ta ca trái đất còn riêng ta” (Trương Chi).

Có lần Văn Cao tự phê: đã sai lầm trốn tránh thực tại bằng viễn cảnh không có thật thay vì phản ánh cái xấu xa đen tôí14. Đó có thực là sai lầm không? Phải là người cực kỳ lạc quan mới có thể hát về cái đẹp trong cảnh bần hàn. Giữa địa ngục trần gian, đầy đường xác người chết đói vào những tháng ngày tiền khởi nghĩa vẫn bay bổng những giai điệu lãng mạn thần tiên, vẫn hào sảng những bài ca yêu nước thương nòi. Giữa những năm tháng cam go trong kháng chiến chống Pháp, ông lại cất lên những khúc hoan ca hướng tới tương lai xán lạn để củng cố niềm tin cho thực tại.

Trong mấy thập niên oan trái “có lúc nước mắt không thể chảy ra ngoài được”15, ông vẫn nuôi dưỡng nguồn cảm hứng sáng tạo và không ngừng nhả tơ. Là người thâm trầm suy tưởng, ông càng kiệm lời, lùi vào hậu trường, đắm mình vào không gian dân ca Bắc Bộ và tìm hiểu ngữ điệu tiếng Việt, âm thầm sống với nhạc không lời, với “riêng những câu thơ còn xanh, riêng những bài hát còn xanh”16.

Trong giai đoạn máy bay Mỹ đánh phá miền bắc, ông đã một mình bám trụ Thủ đô. Tiếng piano vang lên trong căn phòng nhỏ mỗi khi sự căng thẳng ngột ngạt tạm chùng xuống giữa các đợt còi báo yên và báo động. Tổ trưởng dân phố hoảng hồn năn nỉ: “Bác ơi đừng đàn nữa nhỡ máy bay địch nghe thấy lại trút bom xuống đây”.

Đỉnh điểm là đợt oanh tạc của B52 cuối năm 1972, đúng dịp Noel mấy đứa con tranh thủ về thăm bố. Đêm ấy, mấy bố con núp dưới gầm cầu thang ngôi nhà 108 Yết Kiêu, choáng váng dưới trận mưa bom rải thảm dọc con phố Khâm Thiên ngay kế bên. Những chuỗi âm thanh long trời lở đất vừa dứt lại thất thanh tiếng kêu cứu, rền rĩ tiếng gào khóc gọi chồng con bố mẹ của những người sống sót trên dãy phố đổ nát…

Sau những ngày đêm kinh hoàng bi thương đó chỉ vài năm, ông đã viết Mùa xuân đầu tiên tràn đầy tinh thần nhân văn, nhân ái. Tất cả qua đi, còn lại lòng bao dung về tình yêu thương thuần túy giữa người với người, về sự hòa hợp dân tộc xóa bỏ mọi hận thù - điều mà tới nay - sau nửa thế kỷ, người dân Việt vẫn mong chờ và tin sẽ có ngày ước mơ ấy đi vào đời thực.

Sức tàn phá nghiệt ngã của thời gian không thể làm mất đi giá trị đích thực của những tác phẩm hài hòa giữa lời ca đầy hình ảnh và giai điệu giàu cảm xúc. Những muốn dựa trên một câu của chính Văn Cao: “Tấm bia trên mồ một người đã khuất có lẽ còn ở lâu trên mặt đất hơn một cuộc đời”17 để có lời kết cho bài viết về một tài danh đáng trọng, một nhân cách đáng kính, một thi sĩ - nhạc sĩ - nghệ sĩ chân chính: Tác phẩm của một người đã khuất còn ở lâu với nhân thế hơn một cuộc đời, hơn một trăm năm và còn rất nhiều lần trăm năm.

Chú thích:

10 Một câu trong bài thơ Gửi những nhà thơ của Văn Cao.

11 Theo hệ thống ký hiệu của Nga và Đức: chữ b là nốt si giáng, còn si bình là chữ h.

12 Bài thơ Người đi dọc biển (1970) của Văn Cao.

13 Dẫn theo Hoàng Kim Đáng: Nhạc sĩ Văn Cao và ca khúc “Tiến về Hà Nội, Công an nhân dân online, 8/10/2020.

14 Tự kiểm thảo của nhạc sĩ Văn Cao, Báo Văn học số 3, 15/6/1958.

15 Trích từ bài thơ Có lúc (1963) của Văn Cao.

16 Trích từ bài thơ Thời gian (1987) của Văn Cao.

17 Mấy ý nghĩ về thơ của Văn Cao, Tập san Văn Nghệ 7/1957.

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/giua-cuoc-doi-cao-tieng-hat-du-duong-post781741.html