Xây dựng đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Từ năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 76/SL, ngày 20/5/1950, của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, về 'Quy chế công chức Việt Nam'; trong đó, Điều 2, Mục II, Chương 1, quy định rõ: 'Công chức Việt Nam phải phục vụ nhân dân, trung thành với Chính phủ, tôn trọng kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm và tránh làm những việc có hại đến thanh danh công chức hay đến sự hoạt động của bộ máy Nhà nước. Công chức Việt Nam phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư'. Đây là lần đầu tiên, các giá trị đạo đức truyền thống mà liêm chính là giá trị cốt lõi, đã được thể chế hóa thành chuẩn mực pháp lý của công chức Việt Nam.

Tiến trình đổi mới đất nước, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng đòi hỏi nền công vụ Việt Nam phải khắc phục các vấn nạn đang tồn tại để trở nên minh bạch, hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, việc nâng cao chất lượng nền công vụ hiện hành không đơn giản là hiện đại hóa trang thiết bị làm việc hay cải cách tổ chức, mà trước hết cần phải “liêm chính hóa” đội ngũ cán bộ, công chức.

Đối với đội ngũ cán bộ, công chức, muốn “phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi”, cần thực thi đồng bộ hệ thống giải pháp nhằm xây dựng đạo đức công vụ trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thứ nhất, Đảng gương mẫu đi đầu và lãnh đạo Nhà nước cùng toàn xã hội thi hành một nền chính trị liêm khiết. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng đưa ra một định nghĩa độc đáo về chính trị: “Tóm lại chính trị là: 1. Đoàn kết. 2. Thanh khiết từ to đến nhỏ. Người còn định nghĩa về Đảng từ góc độ đạo đức và văn hóa: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”; Đảng không có mục đích nào khác ngoài hạnh phúc của nhân dân. Sự trong sáng, cao thượng, liêm chính chính là sức mạnh của Đảng. Ngày nay, khi mức sống chung trong xã hội ngày càng được nâng lên thì đời sống của cán bộ, đảng viên cũng được cải thiện. Do tình hình kinh tế - xã hội có nhiều đổi khác, cần nghiên cứu để xác định, bổ sung, hoàn chỉnh “thang giá trị đạo đức” phù hợp để đảng viên thực hiện.

Thứ hai, tăng cường công tác giáo dục đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức. Về nguyên tắc, cán bộ, công chức luôn phải đủ đức, đủ tài, nhưng đức phải là gốc. Nếu tài năng ít nhiều có phần “thiên phú” thì đạo đức, liêm chính chủ yếu là do sự tự rèn luyện, tu dưỡng. Phải giáo dục để cán bộ, công chức ý thức sâu sắc rằng: Nhân dân mới đích thực là chủ sở hữu quyền lực và phục vụ nhân dân là lý tưởng cao đẹp nhất của người cách mạng. Hơn nữa, cán bộ, công chức lĩnh lương “của nhân dân” thì phải phục vụ nhân dân một cách tận tâm, tận lực.

Sự tự giác “tu tâm, dưỡng tính” của mỗi cá nhân có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong mắt nhân dân, mỗi hành vi của cán bộ, công chức đều là hình ảnh của nền công vụ nên họ có trách nhiệm phải giữ gìn sự liêm chính như giữ gìn “con ngươi của mắt mình”. Sự nhận thức, ý thức của mỗi cán bộ, công chức về liêm chính phải đủ sâu, đủ mạnh để biến thành hành vi thực hành liêm chính, thành khả năng đủ sức chối từ những việc làm phi pháp.

Thứ ba, chấn chỉnh công tác nhân sự và minh bạch hóa nền hành chính công vụ. Về việc tuyển chọn cán bộ, công chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Phải chọn trong những người có công tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi dân chúng, có năng lực làm việc, được đông đảo dân làng tín nhiệm. Không thể nhờ tiền tài hay một thế lực gì khác mà chui lọt vào các Ủy ban đó”. Để khắc phục căn bệnh “cánh hẩu”, đố kỵ, “chạy chức, chạy quyền” vốn gây bức xúc trong dư luận xã hội, việc thi tuyển, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, công chức phải được tiến hành một cách công khai, minh bạch theo nguyên tắc trọng dụng người tài và “vì việc mà tìm người chứ không phải vì người mà tìm việc”; phải lấy kết quả thực tiễn làm thước đo mức độ hoàn thành công vụ và đạo đức công vụ. Cũng cần quy định rõ trách nhiệm của những người đã dung túng để những kẻ cơ hội, lươn lẹo chui lọt, tiến thân trong bộ máy công quyền. Phải xây dựng cơ chế miễn nhiệm, cho từ chức hoặc buộc từ chức đối với những cán bộ, công chức làm việc kém hiệu quả, có dấu hiệu bất liêm, bất chính và có phiếu tín nhiệm thấp; đồng thời, thiết kế lại bộ máy quản lý để tránh sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ; mỗi cán bộ, công chức được giao chức trách, nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể với quyền hạn, trách nhiệm tương ứng. Thực hiện tốt công tác thi đua - khen thưởng, kỷ luật để răn đe các hành vi vi phạm pháp luật và tôn vinh các điển hình mẫn cán công vụ cùng với cải cách chính sách tiền lương căn cứ theo hiệu quả công việc để cán bộ, công chức yên tâm làm việc.

Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực. Sau Đại hội XII của Đảng, vấn đề kiểm soát quyền lực đã được đặt ra như một giải pháp trọng yếu của công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phòng, chống tham nhũng. Muốn kiểm soát quyền lực cần phải có những giải pháp mang tính thể chế bởi ý thức, tính tự giác của mỗi người là khác nhau. Phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp sao cho chặt chẽ, đồng bộ, không còn kẽ hở cho người xấu trục lợi. Đặc biệt, cần có đạo luật riêng về đạo đức công vụ, đạo đức công chức bởi các quy định về vấn đề này hiện đang nằm rải rác trong các luật khác nhau và chưa có sự thống nhất, chưa thật sự đầy đủ. Cũng cần ban hành Luật Kê khai tài sản để phát hiện các hành vi tham nhũng. Việc giao quyền, phân quyền cho cán bộ, công chức phải đi đôi với tăng cường cơ chế giải trình và có chế tài đủ mạnh để buộc cán bộ, công chức phải thực hành liêm chính công vụ. Để kiểm soát việc thực thi quyền lực của cán bộ, công chức, nâng cao dân trí cũng là một giải pháp quan trọng, bởi đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì “quan” dù không liêm, cũng phải hóa ra liêm. Cần làm cho người dân ý thức rõ rằng, ngoài quyền được nhận sự phục vụ của cơ quan công quyền với tư cách người chủ, người dân còn có quyền giám sát các hoạt động đó. Cần xây dựng chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người dân đối với các sản phẩm dịch vụ công và coi đó là “tham số” quan trọng để đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức.

Thứ năm, phát huy vai trò nêu gương của người đứng đầu các tổ chức công quyền. Nâng cao tấm gương liêm chính và trách nhiệm gương mẫu của người đứng đầu theo phương châm “trong trước, ngoài sau”, “trên trước, dưới sau” chính là giải pháp “đột phá” trong việc chấn chỉnh đạo đức công vụ hiện nay. Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25/10/2018, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”, đòi hỏi người đứng đầu các cơ quan công quyền phải ý thức rõ về “vai trò thủ lĩnh” của mình trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực cũng như trong việc tạo ra hình mẫu người cán bộ mẫn cán, liêm chính để làm gương cho cán bộ dưới quyền và nhân dân.

Bên cạnh đó, cần phải nhanh chóng “số hóa” nền công vụ, xây dựng chính phủ điện tử để nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của chính quyền các cấp, giảm thiểu sự sách nhiễu của cán bộ, công chức.

Trong tiến trình đổi mới và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế hiện nay, văn hóa chính trị, văn hóa công vụ chính là sức mạnh mềm của đất nước. Sự liêm chính trong suy nghĩ và hành động của cán bộ, công chức sẽ quyết định thái độ phục vụ, văn hóa ứng xử, hiệu quả công việc và gắn liền với nó là chỉ số minh bạch của quốc gia, là niềm tin của người dân vào chính thể. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về liêm chính công vụ không chỉ có ý nghĩa giáo dục, cảnh báo mà còn gợi mở hệ thống giải pháp hữu hiệu cho việc xây dựng một nền công vụ liêm chính ở nước ta hiện nay.

PGS, TS. TRẦN THỊ MINH TUYẾT ( Học viện Báo chí và Tuyên truyền)

Nguồn Điện Biên Phủ: http://baodienbienphu.com.vn/tin-tuc/chinh-tri/205899/xay-dung-dao-duc-cong-vu-cho-doi-ngu-can-bo-cong-chuc-theo-tu-tuong-ho-chi-minh