Vì sao các loại vaccine ngừa Covid-19 không có hiệu lực dài hạn?

Trước đại dịch Covid-19, các loại vaccine ngừa các bệnh phổ biến có hiệu lực bảo vệ con người trong thời gian rất lâu. Cụ thể, vaccine ngừa bệnh sởi và rubella có hiệu lực bảo vệ đến suốt cả đời người; vaccine ngừa uốn ván và bạch hầu có hiệu lực đến 14 – 25 năm; vaccine ngừa thủy đậu (trái rạ) có hiệu lực từ 15 – 20 năm; vaccine ngừa viêm gan B có hiệu lực đến 20 năm…

Nhân loại sẽ phải tiếp tục tốn nhiều công sức nghiên cứu một loại vaccine hoàn chỉnh có thể “đón đầu” các biến thể SARS-CoV-2 nhiều khả năng sẽ xuất hiện trong tương lai. Ảnh: Science.org

Thế nhưng vaccine ngừa Covid-19 lại có tác dụng bảo vệ khá ngắn, chỉ khoảng 6 tháng và đang có xu hướng rút ngắn lại hơn trước các biến chủng như Omicron. Đơn cử trường hợp Pháp là nước có hơn 73% dân số tiêm đủ liều vaccine ngừa Covid-19 và hơn 32% đã tiêm mũi tăng cường. Thế nhưng, theo đài RFI, số ca nhiễm Covid-19 mới hàng ngày ở Pháp ghi nhận hôm qua, 31-12-2021 vẫn ở mức trên 200.000, thuộc mức cao chưa từng có từ đầu đại dịch đến nay. Những ngày gần đây, mỗi ngày Pháp có thêm 2.000 người nhập viện điều trị vì nhiễm virus SARS-CoV-2, trong số này có 20% phải điều trị tại các khoa chăm sóc tích cực. Tình hình cũng tương tự ở nhiều nước châu Âu và Mỹ.

Hiệu lực có dài lâu hay không của mỗi loại vaccine tùy thuộc vào các yếu tố sau: mức độ đáp ứng của hệ miễn dịch cơ thể; tốc độ suy giảm của các kháng thể; tần suất xuất hiện các biến thể của virus là nhanh hay chậm; và vị trí bị nhiễm khuẩn trên cơ thể.

Các vaccine truyền thống ngừa bệnh sởi và thủy đậu có thời gian suy giảm của kháng thể rất chậm, nhờ đó kéo dài hiệu lực bảo vệ của vaccine. Kháng thể diệt vi khuẩn gây bệnh uốn ván có thời gian suy giảm nhanh hơn, nhưng nhờ vaccine có sức kích thích hệ miễn dịch rất cao. Nhờ vậy, cơ thể sản xuất ra số lượng kháng thể nhiều hơn yêu cầu nên bù đắp được sự suy giảm lượng kháng thể.

Lịch sử ngành bào chế vaccine cho thấy các loại vaccine sản xuất bằng phương thức sử dụng một phiên bản đã được sửa đổi của một loại virus khác (vector virus) thì thường có thời gian hiệu lực khá lâu, như trường hợp vaccine ngừa bệnh sởi và thủy đậu.

Các loại vaccine bào chế theo phương thức khác, không sử dụng vector virus, thì thời gian hiệu lực ngắn hơn. Nhưng, điều này có thể cải thiện bằng cách bổ sung thêm các tác nhân điều chỉnh nhằm tăng cường mức độ đáp ứng của hệ miễn dịch nhằm kích thích sản xuất ra nhiều kháng thể hơn, như vaccine ngừa uốn ván và viêm gan A.

Virus Sars-Cov-2 có tốc độ đột biến sinh học cực kỳ nhanh, chỉ trong vòng 2 năm từ 2020 đến nay đã sản sinh ra 13 biến thể, mới nhất và có sức gây nhiễm nhanh nhất là Omicron (B.1.1.529). Ảnh: DailyMail

Thông thường, để phát triển một loại vaccine mới, các hãng dược phải mất từ 5 – 10 năm. Lần này, do yêu cầu phải có gấp vaccine ngừa Covid-19 nên các hãng đã phải cấp tốc nghiên cứu và bào chế thuốc ngừa trong thời gian ngắn ngủi chỉ có 12 tháng. Sự chạy đua với thời gian làm cho những nghiên cứu về sự đáp ứng của hệ miễn dịch cơ thể với một chủng virus hoàn toàn mới là SARS-CoV-2 có thể chưa thật sự trọn vẹn.

Do mỗi người có cơ địa khác nhau không ai giống ai, các yếu tố về tuổi tác, bệnh nền, nên sự hoạt động của hệ miễn dịch của từng người sẽ tạo ra sự đáp ứng khác nhau khi tiêm vaccine trên quy mô rộng lớn. Đối với những người không đáp ứng tốt (lượng kháng thể quá ít không đủ để diệt virus) thì lại là cơ hội để virus học cách thích nghi và biến đổi để tồn tại.

Yếu tố quan trọng nhất để một loại vaccine có hiệu lực bảo vệ dài lâu hay không tùy thuộc vào mức độ đột biến sinh học (mutate) của virus gây bệnh. Cơ chế hoạt động cơ bản của vaccine là sau khi tiêm, vaccine sẽ kích thích hệ miễn dịch cơ thể sản xuất kháng thể để tiêu diệt kẻ thù ngoại lai. Đồng thời, hệ miễn dịch sẽ “ghi nhớ” thông tin về loại virus đó để đối phó hữu hiệu nếu trong tương lai bị loại virus đó xâm nhập. Vì thế, nếu virus có khả năng đột biến sinh học khá nhanh thì hệ miễn dịch sẽ không nhận dạng được kẻ thù – tuy cũ mà mới – để kịp thời đối phó.

Các loại vaccine ngừa bệnh sởi, quai bị, rubella, uốn ván… có hiệu lực lâu dài vì cho đến nay các loại virus gây bệnh hầu không có sự đột biến sinh học đáng kể (không phát sinh thêm các biến thể mới). Ngược lại, virus SARS-COV-2 có sự biến đổi rất nhanh – từ 2020 đến nay đã xuất hiện 13 biến thể mới – nên đã làm giảm đáng kể hiệu lực bảo vệ của các loại vaccine hiện hành. Minh chứng là việc xuất hiện của các biến thể Delta và mới nhất là Omicron đã làm lây nhiễm cho rất nhiều người, dù họ đã được tiêm đầy đủ 2 mũi vaccine.

Thêm nữa, virus SARS-CoV-2 thuộc chủng virus influenza có cách hoạt động giống như bệnh cúm nên cực kỳ khó đối phó. Ngay cả với bệnh cúm mùa thông thường, cử mỗi năm y giới phải bào chế các loại vaccine mới để đối phó với sự xuất hiện của các biến thể mới của virus cúm mùa. Và, các loại vaccine này cũng chỉ có thời gian hiệu lực ngắn ngủi từ 6 – 12 tháng.

Rõ ràng là trong cuộc “chạy đua vũ trang” với virus SARS-COV-2, khoa học bao giờ cũng chậm chân hơn một bước. Y giới sẽ phải tiếp tục tốn nhiều công sức nghiên cứu một loại vaccine hoàn chỉnh có thể “đón đầu” các biến thể SARS-COV-2 nhiều khả năng sẽ xuất hiện trong tương lai. Nó cũng cho thấy sự thích ứng để tồn tại của sự sống trên Trái đất -ngay cả ở những loài vô tri giác như virus- là vô cùng kỳ diệu.

Tổng hợp từ RFI, WSJ, Gavi.org, Immune.org

Thiện Khang

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/vi-sao-cac-loai-vaccine-ngua-covid-19-khong-co-hieu-luc-dai-han/