Vi khuẩn bạch hầu là gì? Cơ chế gây bệnh

Vi khuẩn bạch hầu có thể gây ra các bệnh lâm sàng viêm nhiễm ở đường hô hấp trên, trong nhiều trường hợp không được phát hiện và điều trị kịp thời, đúng cách có thể dẫn đến tử vong.

Vậy vi khuẩn bạch hầu là gì? Có những đặc điểm điển hình nào?

Vi khuẩn bạch hầu thuộc họ gì, gây hại như nào?

Vi khuẩn bạch hầu thuộc họ Corynebacteriaceae. Họ Corynebacteriaceae bao gồm các giống như Corynebacterium, Listeria, Erysipelothrix… và phần lớn các giống vi khuẩn thuộc họ này không gây bệnh, chúng ký sinh trong đất, súc vật, người và một số ít có khả năng gây bệnh cho con người.

Vi khuẩn bạch hầu có thể gây ra các bệnh lâm sàng viêm nhiễm ở đường hô hấp trên. Ảnh minh họa

Đối với vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae, đây là loại vi khuẩn gây bệnh bạch hầu. Chúng có khả năng ký sinh cả ngoài môi trường và trong cơ thể con người. Vi khuẩn bạch hầu thường không gây hại trừ khi chúng bị nhiễm bởi một thể thực khuẩn mang gen tạo ra độc tố, chất độc này gây bệnh bạch hầu. Bệnh bạch hầu xảy ra khi vi khuẩn bám vào và xâm nhập vào các lớp niêm mạc của cơ thể, chủ yếu ảnh hưởng đến đường hô hấp và sau đó giải phóng nội độc tố. Chất độc này có tác dụng cục bộ trên các tổn thương da và có khả năng phân giải protein, di căn trên các hệ cơ quan khác trong trường hợp nhiễm trùng nặng.

Khi được quan sát dưới kính hiển vi, hình thái điển hình của nó là trực khuẩn, có 1 hoặc 2 đầu phình to với hình thái đặc trưng như chữ H, V, X, Y… nên còn được biết đến như trực khuẩn hình chùy. Kích thước của bạch hầu thường dao động từ 2 – 6 μm về chiều dài và từ 0,5 – 1 μm về chiều rộng. Bạch hầu không có vỏ, không sinh nha bào và không di động.

Cơ chế gây bệnh của vi khuẩn bạch hầu

Khi xâm nhập vào đường hô hấp, vi khuẩn bạch hầu sẽ cư trú ở niêm mạc hầu, họng và tiết ra ngoại độc tố. Vi khuẩn và độc tố gây loét tại chỗ, tạo thành giả mạc màu trắng xám, dính chặt vào niêm mạc, khi bóc tách có thể gây chảy máu. Giả mạc xuất hiện đầu tiên ở họng, sau đó lan tràn lên đường mũi hoặc xuống khí quản, gây khó thở.

Ngoại độc tố còn theo đường máu tác động đến hệ thống thần kinh, gây ra các triệu chứng như liệt vòm miệng, cơ mắt, liệt tứ chi, gây thương tổn tại gan, thận, tác động lên tim gây viêm cơ tim, suy tim,... Ngoài ra, có thể xuất hiện giả mạc ở da hoặc các vết thương nhưng sự phân tán độc tố thường nhẹ và không gây ra nhiều triệu chứng.

Khả năng tồn tại của vi khuẩn bạch hầu

Vi khuẩn bạch hầu có khả năng tồn tại ngoài cơ thể và chịu được thời tiết khô hanh, lạnh giá do có sức đề kháng cao hơn các chủng vi khuẩn không có nha bào khác. Vi khuẩn bạch hầu thường có lớp chất nhầy bên ngoài để bảo vệ. Thời gian tồn tại của chúng trong môi trường khác nhau được các chuyên gia đánh giá từ trung bình đến rất lâu. Ví dụ, ở môi trường các loại vải, vi khuẩn bạch hầu có thể sống trong vòng 1 tháng, 20 ngày trong nước hoặc sữa tươi và 15 ngày trong tử thi của người bệnh.

Khi xâm nhập vào đường hô hấp, vi khuẩn bạch hầu sẽ cư trú ở niêm mạc hầu, họng và tiết ra ngoại độc tố. Ảnh minh họa

Tuy nhiên, vi khuẩn bạch hầu khá nhạy cảm với yếu tố lý hóa. Dưới ánh sáng mặt trời trực tiếp, chúng sẽ chết sau vài giờ. Nếu tiếp xúc với ánh sáng mặt trời khuếch tán, vi khuẩn bạch hầu sẽ bị tiêu diệt sau vài ngày. Ở nhiệt độ 58 độ C, chúng chỉ tồn tại trong khoảng 10 phút và chỉ sống được 1 phút dưới tác động của các chất sát khuẩn, phenol 1% và cồn 60 độ.

Ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu là một protein không bền với nhiệt, có tính kháng nguyên đặc hiệu và độc tính cao, không chịu được nhiệt độ hoặc formol. Ngoại độc tố này giống nhau trên các loại vi khuẩn bạch hầu. Đây là một độc tố mạnh mẽ, với chỉ 1mg đã có thể giết chết 1.000 con chuột lang nặng 250g sau 6 giờ.

Bs. Nguyễn Văn Hải

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/vi-khuan-bach-hau-la-gi-co-che-gay-benh-169231207140206085.htm