Nghiên cứu, rút kinh nghiệm trong thực tiễn giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Trên cơ sở thực tiễn thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Phòng 3- Vụ 7 VKSND tối cao đã tham mưu cho Lãnh đạo Vụ 7 VKSND tối cao vừa ban hành Thông báo số 101/TB-VKSTC-V7 về việc 'Rút kinh nghiệm trong xác định tội danh và tư cách tham gia tố tụng của chủ sở hữu tài sản và người nhận cầm cố, thế chấp tài sản trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản'.

Thực hiện chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự (Vụ 7) xây dựng chuyên đề “Xác định tội danh và tư cách tham gia tố tụng của chủ sở hữu tài sản và người nhận cầm cố, thế chấp tài sản trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Trên cơ sở kết quả xây dựng chuyên đề, Phòng 3, vụ 7 tổng hợp 07 trường hợp, tình huống điển hình về “Xác định tội danh và tư cách tham gia tố tụng của chủ sở hữu tài sản và người nhận cầm cố, thế chấp tài sản trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” để thông báo đến các Viện kiểm sát cấp cao, Viện kiểm sát 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cùng nghiên cứu, vận dụng.

Phòng 3 Vụ 7- VKSND tối cao cho biết: Từ 01/12/2017 đến 30/11/2020, các Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thụ lý thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử 383 vụ/450 bị cáo trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có hành vi thuê, mượn hoặc được giao tài sản là xe ô tô sau đó mang đi cầm cố, thế chấp.

Mặc dù, số lượng các vụ án hình sự có xu hướng tăng cả về số lượng, tính chất, mức độ, thủ đoạn, hành vi phạm tội, đặc biệt đối với các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản phát sinh từ hành vi thuê, mượn tài sản là xe ô tô và kết quả giải quyết đối với các vụ án này đã có những chuyển biến tích cực, nhiều vụ án được đưa ra xét xử đúng người, đúng tội, đảm bảo thời hạn luật định.

Tuy nhiên, vẫn còn có những vụ án chưa có sự thống nhất trong việc xác định tội danh và tư cách tham gia tố tụng của chủ sở hữu tài sản và người nhận cầm cố, thế chấp tài sản gây ảnh hưởng đến hiệu quả công tác phòng, chống loại tội phạm này và là nguyên nhân dẫn đến việc trả hồ sơ điều tra bổ sung, bản án bị hủy, sửa.

Phòng 3, Vụ 7- VKSND tối cao đưa ra 07 trường hợp, tình huống điển hình trong quá trình giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. (Ảnh: TT Vụ 7)

Những bất cập khi xác định tội danh và tư cách người tham gia tố tụng và nguyên nhân

Trong các vụ án có hành vi thuê, mượn hoặc được giao tài sản sau đó mang đi cầm cố, thế chấp hiện còn có nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác tội danh là tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” hay tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Thực tiễn xét xử cũng có trường hợp cùng một hành vi bị cáo có được tài sản từ việc thỏa thuận với người quản lý tài sản sau đó mang xe đi cầm cố để lấy tiền tiêu xài, nhưng có vụ án bị cáo bị xử lý về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, có vụ án bị cáo bị xử lý về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” như Vụ Nguyễn Quốc Oai ở Thành phố Hồ Chí Minh xử lý về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”: Oai liên hệ thuê xe ô tô trị giá 580.000.000 đồng của ông Lê Thụy Hiệp 03 ngày để đi Đà Lạt, hai bên không làm hợp đồng mà chỉ thỏa thuận miệng và giao xe, giấy tờ xe cho Oai. Sau khi lấy được xe thì ngay trong ngày, Oai đã cầm cố chiếc xe trên trong 01 tháng cho bà Nguyễn Thị Kim Ngọc để lấy 120.000.000 đồng tiêu xài, đánh bạc. Nguyễn Quốc Oai bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 4 Điều 175 BLHS năm 2015.

Ngược lại, vụ Bùi Quốc Trà ở An Giang, hành vi thủ đoạn giống như vụ Nguyễn Quốc Oai. Bị cáo Trà thuê xe ô tô trị giá 423.000.000 đồng của cơ sở cho thuê xe trong thời gian 02 ngày, sau đó cầm cố xe cho 01 phụ nữ người Campuchia lấy 147.000.000 đồng để đánh bạc. Hành vi của Trà bị Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 174 BLHS năm 2015.

Có địa phương, các cơ quan tiến hành tố tụng lại xử lý cả về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như vụ Nguyễn Ngọc Tuấn ở thành phố Hà Nội: Khoảng tháng 4/2017, Nguyễn Ngọc Tuấn là Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn du lịch Minh Vũ, kinh doanh thuê và cho thuê xe ô tô tự lái, có quan hệ quen biết với Hoàng Văn Đông. Khi được Đông đề xuất Tuấn thuê xe ô tô về đưa lại cho Đông mang đi cầm cố, thế chấp lấy tiền về trả nợ dần cho Tuấn, Tuấn đã đồng ý. Tuấn biết rõ Đông đang bị nợ nần nhiều nên không có khả năng trả tiền cho Tuấn đối với những chiếc xe Đông đã thuê trước đó, nhưng Tuấn vẫn liên tiếp đưa cho Đông 03 xe ô tô trị giá 1.742.503.000 đồng do Tuấn thuê của khách hàng để Đông đem đi cầm cố, thế chấp và lấy tiền về chia nhau. Các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Hà Nội xác định Hoàng Văn Đông và Nguyễn Ngọc Tuấn phạm 2 tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Hoặc trường hợp người phạm tội lợi dụng lòng tin, mượn xe của chủ sở hữu, sau đó vì cần tiền trả nợ nên đã có hành vi gian dối đưa ra thông tin không đúng sự thật để chủ hiệu cầm đồ đồng ý cho vay tiền. Trường hợp này, ở 1 số địa phương xác định người phạm tội phạm cùng lúc 02 tội: tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” để chiếm đoạt xe ô tô của chủ sở hữu và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” để chiếm đoạt tiền của chủ hiệu cầm đồ.

Hoặc trên thực tế phát sinh trường hợp đối tượng mượn, thuê xe ô tô của người khác sau đó đem xe ô tô đi cầm cố, thế chấp thì chủ xe phát hiện và báo cho Cơ quan Công an đến thu giữ xe. Đối tượng khai: chỉ cầm cố, thế chấp tạm thời để lấy tiền giải quyết việc cấp bách, sau sẽ tìm nguồn tiền chuộc lại xe ô tô chứ không có ý định chiếm đoạt. Đối với trường hợp này, có quan điểm cho rằng hành vi cấu thành tội phạm vì đã sử dụng tài sản thuê, mượn vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản cho người bị hại; quan điểm khác cho rằng hành vi không cấu thành tội phạm vì không có ý thức chiếm đoạt.

Bất cập trong việc xác định tư cách người tham gia tố tụng

Cùng có hành vi thuê, mượn hoặc được giao xe ô tô sau đó mang đi bán, cầm cố, thế chấp, ở một số vụ án, chủ sở hữu được xác định là người bị hại, một số vụ án khác, chủ sở hữu lại được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Cá biệt có địa phương xác định cả chủ sở hữu tài sản và người nhận cầm cố là bị hại.

Ví dụ: Vụ án Nguyễn Văn Hùng: “Nguyễn Văn Hùng là lái xe thuê cho anh Đặng Thế Linh. Do cần tiền nên Hùng nói dối anh Linh là xe đang bị Cảnh sát giao thông chặn lại kiểm tra giấy tờ. Anh Linh tưởng thật nên đưa toàn bộ giấy tờ liên quan đến xe ô tô cho Hùng. Sau đó, Hùng mang xe cùng giấy tờ xe đến cầm cố cho chị Lê Thị Ánh Tuyết lấy 50.000.000 đồng. Chiếc xe trị giá 80.784.000 đồng.

Trong vụ án này, các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Bình Thuận xác định anh Đặng Thế Linh (chủ sở hữu tài sản) là bị hại, chị Lê Thị Ánh Tuyết (người nhận cầm cố tài sản) là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Từ những vụ án trên, Phòng 3, Vụ 7- VKSND tối cao cho thấy cùng hành vi, thủ đoạn như nhau, có nơi các bị cáo bị xử lý về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, có bị cáo bị xử lý về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; việc xác định tư cách của chủ sở hữu tài sản, người nhận cầm cố thế chấp tài sản vẫn còn tồn tại nhiều cách hiểu, nhiều quan điểm khác nhau, không thống nhất giữa những người tiến hành tố tụng, giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, cũng như giữa đơn vị, địa phương này với đơn vị, địa phương khác, dẫn tới xác định sai tư cách, địa vị pháp lý của họ.

Việc sai lầm trong xác định tư cách tham gia tố tụng của chủ xe ô tô và chủ hiệu cầm đồ, dẫn đến quyết định sai về phần trách nhiệm dân sự, về quyền kháng cáo của họ; trong một số trường hợp việc xác định không đúng tư cách người tham gia tố tụng được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dẫn đến bản án bị hủy, sửa.

Theo quan điểm của phòng 3, Vụ 7- VKSND tối cao có nhiều nguyên nhân gây ra những bất cập như trên, cụ thể:

Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, các quy định pháp luật và văn bản hướng dẫn thi hành BLHS, BLTTHS còn thiếu, chưa kịp thời, dẫn đến cách hiểu và vận dụng, áp dụng pháp luật chưa thống nhất, đồng bộ. Trường hợp mặc dù hết thời hạn cầm cố thế chấp nhưng người cầm cố khai vẫn có ý thức trả nợ mặc dù chưa có tiền trả, xe cầm cố vẫn còn chưa bị bán đi hoặc trường hợp đối tượng cố tình mang xe đi cầm cố để chiếm đoạt nhưng khi bị phát hiện thì mang tiền trả ngay… do vậy việc xác định yếu tố chiếm đoạt còn gặp nhiều khó khăn.

Thứ hai, đặc thù của tội phạm dạng này là thực hiện tại nhiều địa phương và thời gian xảy ra đã lâu, kéo dài trong nhiều năm, sau khi chiếm đoạt tài sản người phạm tội thường có ý thức tránh gặp mặt chủ sở hữu và lẩn trốn không làm việc với cơ quan pháp luật nên công tác điều tra gặp nhiều khó khăn từ việc chứng minh ý thức chủ quan, lấy lời khai làm rõ diễn biến, hành vi phạm tội đến thu hồi tài sản, thu thập chứng cứ, tài liệu… Bên cạnh đó, người nhận cầm cố, thế chấp tài sản không làm hợp đồng hoặc không có giấy phép kinh doanh trong hoạt động nhận cầm cố, thế chấp tài sản gây khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án.

Thứ ba, công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, giữa Viện kiểm sát cấp trên và cấp dưới, giữa các phòng nghiệp vụ Viện kiểm sát cấp tỉnh chưa thực sự được tăng cường, nhiều Viện kiểm sát cấp dưới có hiện tượng “ngại” trao đổi với các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc thỉnh thị Viện kiểm sát cấp trên.

Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, nguyên nhân thuộc về nhận thức, kỹ năng nhận diện và xử lý tình huống, dẫn đến việc xác định sai tội danh, tư cách tham gia tố tụng và trách nhiệm bồi thường dân sự trong vụ án. Chưa nghiên cứu kỹ các dấu hiệu pháp lý, cấu thành tội phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Nhận thức chưa đầy đủ, đúng đắn các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về địa vị pháp lý của người tham gia tố tụng như: Người bị hại, Nguyên đơn dân dự, Bị đơn dân sự, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu các quy định của Bộ luật dân sự về cầm cố, thế chấp, những yêu cầu pháp lý đối với hoạt động cầm cố, từ đó làm rõ bản chất của giao dịch cầm đồ chưa được coi trọng nên phần nào ảnh hưởng đến kỹ năng nhận diện và xử lý tình huống khi giải quyết vụ án.

Thứ hai, nguyên nhân thuộc về kinh nghiệm: Đối với một số Kiểm sát viên chưa có nhiều kinh nghiệm trong giải quyết các vụ án dạng này. Do vậy, khi có tình huống phức tạp phát sinh, Kiểm sát viên chưa định hình được ngay những việc cần triển khai để đánh giá đúng bản chất vấn đề khiến chất lượng giải quyết vụ án chưa thực sự cao.

Từ thực tế trên cho thấy, do chưa nhận thức đúng đắn và đầy đủ; dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất, không chính xác, không xác định đúng tội danh và tư cách tham gia tố tụng của chủ sở hữu tài sản và người nhận cầm cố, thế chấp tài sản khi thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án thuộc 02 loại tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Theo quan điểm của phòng 3, Vụ 7- VKSND tối cao có nhiều nguyên nhân gây ra những bất cập trong việc xác định tư cách người tham gia tố tụng. (Ảnh minh họa)

07 trường hợp, tình huống điển hình cần nghiên cứu, vận dụng.

Sau khi báo cáo lãnh đạo VKSND tối cao, trong khi chờ Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết hướng dẫn, Phòng 3- Vụ 7 VKSND tối cao đã tổng hợp 07 trường hợp, tình huống điển hình để thông báo đến các Viện kiểm sát cấp cao, Viện kiểm sát 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cùng nghiên cứu, vận dụng.

Vì là những trường hợp, tình huống điển hình nên trong quá trình giải quyết các vụ án, Viện kiểm sát các cấp sẽ phải phân tích, đánh giá toàn diện chứng cứ trong từng trường hợp cụ thể của địa phương mình để vận dụng giải quyết vụ án, bảo đảm đúng quy định của pháp luật. Các trường hợp điển hình cần rút kinh nghiệm cụ thể như sau:

Trường hợp 1: Đối với trường hợp được người khác giao xe (bằng hình thức thuê, mượn…) sau đó đem bán hoặc cầm cố, thế chấp cho người khác thì xem xét, xác định chủ sở hữu xe là bị hại và người nhận cầm cố, thế chấp là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Trường hợp 2. Đối với trường hợp đưa ra thông tin sai sự thật để chủ sở hữu xe và chủ hiệu cầm đồ tin tưởng giao xe, giao tiền thì xem xét, xác định chủ sở hữu xe ô tô là bị hại và người nhận cầm cố, thế chấp có thể được xem xét là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan hoặc là người thứ ba ngay tình, có quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường.

Trường hợp 3. Đối với trường hợp chủ xe được ngân hàng cho vay tiền để mua xe nhằm mục đích kinh doanh; sau đó chủ xe giao xe cho người khác chạy hợp đồng. Người này đem xe đi cầm cố lấy tiền rồi bỏ trốn thì xem xét, xác định chủ xe ô tô là bị hại, chủ hiệu cầm đồ và ngân hàng là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Trường hợp 4. Đối với trường hợp nhờ người khác thuê xe hộ, sau đó lợi dụng lấy xe mang đi bán hoặc mang đi cầm cố, thế chấp thì người được giao tài sản hợp pháp là bị hại; chủ xe và chủ hiệu cầm đồ là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Trường hợp 5. Đối với trường hợp được giao xe (không thuộc các trường hợp thuê, mượn nêu trên), sau đó mang xe đi cầm cố, dùng các thủ đoạn tinh vi để lừa dối chủ hiệu cầm đồ (làm giả chứng minh thư, giấy tờ…) để vay tiền. Sau đó, nói dối chủ hiệu cầm đồ để lấy xe về trả cho chủ sở hữu xe ô tô trước khi chủ xe phát hiện thì có thể xem xét, đánh giá toàn diện vụ án để xác định chủ hiệu cầm đồ là bị hại; chủ xe là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Trường hợp 6. Đối với trường hợp dùng xe ô tô đã thế chấp cho ngân hàng hoặc chờ kê biên đấu giá trả nợ cho ngân hàng, sau đó làm giả giấy chứng nhận đăng ký xe mang đi cầm cố, thế chấp thì có thể xem xét, đánh giá toàn diện vụ án để xác định ngân hàng là bị hại; chủ sở hữu chiếc xe đã thế chấp cho ngân hàng và chủ hiệu cầm đồ là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Trường hợp 7. Đối với trường hợp mượn, thuê xe là tài sản hợp pháp của chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp (có hợp đồng, ghi rõ thời hạn trong hợp đồng). Sau đó, nảy sinh ý định chiếm đoạt và làm giả giấy tờ về nhân thân và giấy tờ xe để mang tài sản đi cầm cố lấy tiền tiêu xài thì phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và bị hại được xác định là chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý hợp pháp ghi trên hợp đồng; chủ hiệu cầm đồ là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Trường hợp trên là tình huống điển hình của việc người phạm tội có được tài sản bằng hình thức thuê, mượn… nhưng có hợp đồng thuê, mượn rõ ràng. Do vậy, các trường hợp này đều cần được làm rõ mục đích thuê, mượn tài sản, thời hạn thuê, mượn ghi trong hợp đồng để đánh giá đúng bản chất hành vi phạm tội.

Theo Phòng 3, Vụ 7- VKSND tối cao, đây là nội dung cần thông báo để Viện kiểm sát nhân dân cấp cao 1, 2, 3; Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cùng nghiên cứu,rút kinh nghiệm, phổ biến, quán triệt,vận dụng thực hiện thống nhất trong thực tiễn giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có yếu tố cho thuê, mượn hoặc giao tài sản cho người khác mang đi cầm cố, thế chấp./.

Phòng 3,Vụ 7- VKSND tối cao

Nguồn BVPL: https://baovephapluat.vn/cai-cach-tu-phap/thuc-tien-kinh-nghiem/nghien-cuu-rut-kinh-nghiem-trong-thuc-tien-giai-quyet-cac-vu-an-lua-dao-chiem-doat-tai-san-hoac-lam-dung-tin-nhiem-chiem-doat-tai-san-149201.html