Giải phóng quần đảo Trường Sa: Chiến công mang tầm chiến lược

'Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, Hải quân nhân dân Việt Nam đã thần tốc, táo bạo, phối hợp, hiệp đồng với các lực lượng chiến đấu giải phóng các đảo của quần đảo Trường Sa. Đây là chiến công có ý nghĩa chiến lược của Hải quân nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước'.

Chuẩn đô đốc Phạm Văn Hoành- Tư lệnh Vùng 4 Hải quân đã khẳng định như vậy khi nói về chiến dịch giải phóng quần đảo Trường Sa.

Chiến dịch thần tốc và táo bạo

Ý thức đầy đủ rằng quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền thiêng liêng của Việt Nam, một địa bàn có ý nghĩa chiến lược về quân sự, chính trị và kinh tế, nên ngay từ đầu năm 1975, Quân chủng Hải quân cũng đã chỉ đạo lực lượng làm nhiệm vụ giải phóng quần đảo Trường Sa phải tích cực chuẩn bị các phương án và chuẩn bị tác chiến trên hướng biển, để khi thời cơ đến nhanh chóng hành động, giải phóng các đảo khi có lệnh và bảo đảm chắc thắng.

Một góc đảo Trường Sa hôm nay

Sau khi nhận lệnh từ Bộ Tổng tư lệnh, với phương châm thần tốc, táo bạo, bất ngờ, Quân chủng Hải quân đã khẩn trương chuẩn bị lực lượng bám sát tình hình, tranh thủ thời cơ, mưu trí, táo bạo bất ngờ tấn công giải phóng quần đảo Trường Sa. Chuẩn đô đốc Phạm Văn Hoành cho biết: “Quyết tâm của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Hải quân là bám sát tình hình, tranh thủ thời cơ có lợi nhất để giải phóng đảo, kiên quyết không để lực lượng nào khác đánh chiếm đảo trước ta. Giải phóng quần đảo trở thành một nhiệm vụ chiến lược nhưng nặng nề và phức tạp. Quần đảo Trường Sa nằm xa đất liền, Hải quân nhân dân Việt Nam chưa đủ mạnh, phương tiện đổ bộ cần thiết lại thiếu. Thời cơ giải phóng cũng là vấn đề cần cân nhắc kỹ lưỡng, nếu tiến hành sớm thì lo sợ thương vong nhiều, tiến hành muộn thì hải quân “nước ngoài” sẽ chiếm đóng trước”.

21 giờ ngày 10/4/1975, Bộ Tư lệnh Hải quân quyết định điều động tàu 673, 674, 675 và 641 của Trung đoàn 125 cấp tốc cơ động vào cảng Đà Nẵng, làm công tác chuẩn bị đi biển. Trong đó, nhiệm vụ chính là chở bộ đội đặc công của Đoàn 126 Hải quân và lực lượng vũ trang khác ra giải phóng Trường Sa. Chủ trương của ta là tiến đánh giải phóng đảo Song Tử Tây trước, tiếp đó tiến công các đảo: Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn, Trường Sa và các đảo còn lại, không cho địch kịp thời tăng viện đối phó.

Ngày 11/4, các lực lượng của ta bí mật xuất phát từ Đà Nẵng và chọn đảo Song Tử Tây làm mục tiêu giải phóng đầu tiên. Rạng sáng ngày 14/4/1975, đội 1 đặc công hải quân, dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Ngọc Quế (Đội trưởng Đội 1, Đoàn 126) chia làm 3 mũi, bí mật áp sát đảo. 3 giờ 55 phút, các mũi tiếp cận xong và áp sát mục tiêu. Đúng 4 giờ sáng ngày 14/4/1975 ta bắt đầu nổ súng. Sau gần 20 phút chiến đấu, trước sự tấn công bất ngờ của ta, địch phản ứng yếu ớt, buộc phải đầu hàng. 4 giờ 20 phút, thượng sỹ Lê Xuân Phát đã hạ cờ ba que xuống, nhanh chóng kéo cờ giải phóng tung bay trên đảo, báo hiệu ta làm chủ hoàn toàn trận đánh. Kết quả ta bắt sống tên thiếu úy chỉ huy cùng 38 tên lính khác, thu toàn bộ vũ khí trang bị. Đảo Song Tử Tây được giải phóng làm quân địch trên toàn quần đảo Trường Sa hoang mang, dao động, tạo điều kiện cho ta giải các đảo còn lại thuận lợi.

Nhà trung tâm khang trang tại đảo Song Tử Tây - đảo đầu tiên giải phóng trong chiến dịch giải phóng quần đảo Trường Sa. Ảnh: Tống Tùng

Chớp thời cơ đó, lúc 0 giờ 30 phút ngày 25/4, ta sử dụng 2 tàu 673 và 641 chở lực lượng từ đảo Song Tử Tây đến đảo Sơn Ca. Khi đến cách Sơn Ca 2 hải lý, lực lượng được chia làm 3 mũi, do thiếu úy Đỗ Viết Cường chỉ huy đổ bộ lên đảo. 1 giờ 30 phút ta đổ bộ xong, bắt đầu trinh sát đảo. 2 giờ 30 phút, ta nổ súng tấn công tiêu diệt địch. Bị đánh bất ngờ, địch chống cự yếu ớt rồi hốt hoảng bỏ chạy, đầu hàng. 3 giờ sáng ngày 25/4 ta giải phóng hoàn toàn đảo Sơn Ca, tiêu diệt và bắt sống 25 tên địch, tịch thu vũ khí cùng toàn bộ quân trang.

Sau chiến thắng của quân Giải phóng tại Song Tử Tây và Sơn Ca, hệ thống phòng thủ của địch trên các đảo bị đe dọa nghiêm trọng. Nam Yết mặc dù là trung tâm chỉ huy của địch trên quần đảo Trường Sa, nhưng chúng vẫn không thể kháng cự được. Trước khí thế tiến công như vũ bão của quân Giải phóng, chỉ huy quân địch buộc phải rút chạy. Chớp thời cơ, lực lượng của ta nhanh chóng giải phóng đảo. Vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 27/5/1975, ta hoàn toàn làm chủ Nam Yết.

“Với toan tính và tham vọng thôn tính Trường Sa, độc chiếm Biển Đông của nước ngoài, Trường Sa hôm nay vẫn chưa thực sự được bình yên. Thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong Quân chủng Hải quân và các đơn vị trong Quân đội hôm nay đã và đang đồng cam cộng khổ, chia ngọt, sẻ bùi cùng với cán bộ, chiến sĩ, chính quyền và nhân dân trên đảo vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, góp phần xây dựng các đảo trên quần đảo Trường Sa thực sự mạnh về phòng thủ, tốt về lối sống, đẹp về cảnh quan môi trường, mẫu mực về quan hệ nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc thân yêu, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó”- Chuẩn đô đốc Phạm Văn Hoành khẳng định.

Tại đảo Sinh Tồn, ngày 29/3, đội đặc công 1 của tàu 126 được trang bị 3 tàu vận tải của lữ đoàn 125 và một số vũ khí trang bị do đồng chí Mai Năng (Lữ đoàn trưởng đặc công nước 126) chỉ huy, được giao nhiệm vụ trực tiếp giải phóng đảo. Sau khi nghe tin quân ta giải phóng các đảo Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, quân địch trên đảo Sinh Tồn đã hoang mang dao động, rút chạy từ sáng ngày 27/4, nên lực lượng ta đổ bộ thuận lợi. Đúng 10 giờ 20 phút ngày 28/4/1975, ta làm chủ đảo hoàn toàn. Và đến 9 giờ sáng ngày 29/4/1975, phân đội chiến đấu cuối cùng của Lữ đoàn 126 đổ bộ làm chủ đảo Trường Sa. Từ đó đảo Trường Sa nói riêng và quần đảo Trường Sa nói chung bước vào thời kỳ lịch sử mới, thời kỳ xây dựng chiến đấu và trưởng thành bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

“9h ngày 29/4/1975 ta đã hoàn toàn làm chủ đảo Trường Sa, cũng đồng thời kết thúc một nhiệm vụ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chiến lược do Quân ủy Trung ương giao cho Quân chủng Hải quân. Việc giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa từ quân đội Sài Gòn đóng giữ chính là bằng chứng có tính pháp lý để khẳng định trước cộng đồng quốc tế quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam”, Chuẩn đô đốc Phạm Văn Hoành nhấn mạnh. Trường Sa hôm nay

Sau khi giải phóng 5 đảo trên quần đảo Trường Sa năm 1975, những năm 1987 trở lại đây, ta tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cấp trên giao về củng cố, xây dựng Trường Sa. Quân chủng Hải quân đã nhanh chóng triển khai lực lượng đóng giữ thêm 16 đảo, nâng tổng số thành 21 đảo với 33 điểm đóng quân.

Trải qua 42 năm xây dựng và trưởng thành, lớp lớp cán bộ chiến sĩ và nhân dân trên đảo đã không ngại hy sinh, gian khổ, chủ động khắc phục mọi khó khăn, trên dưới một lòng lập được nhiều thành tích xuất sắc, hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo. Đặc biệt, cùng với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng và nhân dân với tinh thần “Tất cả vì Trường Sa thân yêu”, quân dân trên quần đảo Trường Sa đã không ngừng xây dựng đảo ngày càng khang trang. Đặc biệt nhiều công trình dân sinh đã được triển khai thực hiện và đưa vào sử dụng như: Chùa, Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ, nhà tưởng niệm Bác Hồ, tượng đài Quốc công tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, công viên Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhà văn hóa, trường học... Vững chắc hơn nhất là hệ thống năng lượng gió, năng lượng mặt trời trên đảo được xây dựng góp phần nâng cao đời sống sinh hoạt, học tập, công tác... của quân dân trên đảo.

Bảo Duy

Nguồn LĐTĐ: http://laodongthudo.vn/giai-phong-quan-dao-truong-sa-chien-cong-mang-tam-chien-luoc-52368.html