Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước: Khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Kỷ niệm 49 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975-2024) là dịp để chúng ta ôn lại những cống hiến, hy sinh của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong những năm tháng trường kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giành thắng lợi vẻ vang. Đồng thời, khắc ghi khát vọng cháy bỏng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời.

Tiểu đoàn Bắc Sơn lên đường đánh Mĩ - Ảnh: Cố nhà báo Vũ Bách

Cả cuộc đời của Lãnh tụ Hồ Chí Minh đều mong muốn thiết tha Bắc - Nam sum họp một nhà. Người luôn dành tình cảm đặc biệt cho đồng bào miền Nam, bởi “Miền Nam yêu quý luôn ở trong trái tim tôi”. Mùa Xuân năm 1964, trong Thư “Chúc mừng năm mới”, niềm mong mỏi thiết tha ấy, lại cất lên trong những vần thơ da diết:

“ Bắc Nam như cội với cành

Anh em ruột thịt, đấu tranh một lòng

Rồi đây thống nhất thành công

Bắc Nam ta lại vui chung một nhà”.

Với quyết tâm tìm con đường mang lại tự do, độc lập cho dân tộc, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời bến Cảng Nhà Rồng năm 1911, mang theo một quyết tâm cháy bỏng “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”. Từ khi tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tiến hành sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, dành được độc lập năm 1945, bước tiếp vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ gian khổ.

Kết thúc 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng, nhưng miền Nam tiếp tục cuộc chiến đấu để bảo vệ độc lập dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh dặn dò bộ đội, cán bộ và gia đình cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc (9/1954) với một lời hứa và cũng là niềm mong mỏi của Người: “Đến ngày hòa bình đã được củng cố, thống nhất được thực hiện, độc lập, dân chủ đã hoàn thành, đồng bào sẽ vui vẻ trở về quê cũ. Lúc đó, rất có thể tôi sẽ cùng đồng bào vào thăm miền Nam yêu quý của chúng ta”. Tháng 2/1958, trong Tuyên bố tại cuộc họp báo ở Niu ĐêLi (Ấn Độ) về vấn đề thống nhất nước Việt Nam, quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Miền Nam là thịt của thịt chúng tôi, là máu của máu chúng tôi”. Ngày 23/10/1963, trong "Lời chào mừng các đoàn đại biểu công đoàn quốc tế", Người bày tỏ tình cảm đối với Đoàn đại biểu Hội Lao động giải phóng miền Nam Việt Nam: “Trái tim của tôi và 17 triệu đồng bào miền Bắc luôn luôn đập một nhịp với trái tim của đồng bào miền Nam”.

Năm 1963, khi được tin Quốc hội tặng thưởng Huân chương cao quý nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác đã cảm ơn Quốc hội và nói: “Trong khi miền Bắc ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội để ủng hộ đồng bào miền Nam, thì đồng bào miền Nam đã anh dũng chiến đấu để bảo vệ công cuộc xây dựng hòa bình ở miền Bắc. Cho nên Nhân dân miền Bắc từng giờ từng phút nhớ đến đồng bào miền Nam. Gần 20 năm trường, hết đấu tranh chống thực dân Pháp, lại đấu tranh chống Mỹ - Diệm, đồng bào miền Nam thật là những người con anh hùng của dân tộc anh hùng Việt Nam. Miền Nam thật là xứng đáng với danh hiệu "Thành đồng của Tổ quốc" và xứng đáng được tặng Huân chương cao quý nhất. Vì những lẽ đó, tôi xin Quốc hội đồng ý thế này: Chờ đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hòa bình thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà, Quốc hội sẽ cho phép đồng bào miền Nam trao cho tôi Huân chương cao quý. Như vậy thì toàn dân ta sẽ sung sướng, vui mừng”.

Tháng 8/1969, Bác nằm trên giường bệnh nhưng vẫn nghe báo cáo tình hình chiến trường, vẫn theo dõi bản đồ chiến sự miền Nam. Trước lúc đi xa, trong Bản Di chúc, Người đã dành tình cảm, niềm tin mãnh liệt cho đồng bào miền Nam, cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc. Người viết: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, Nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà” và dặn dò: “Nếu tôi qua đời trước ngày nước ta được thống nhất, thì nên gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam”.

Đoàn cựu du kích Bắc Sơn thăm và động viên các chiến sĩ Tiểu đoàn Bắc Sơn 1 trước khi lên đường vào Nam chiến đấu (năm 1969) - Ảnh: Cố nhà báo Vũ Bách

Thực hiện khát vọng

Ngày 7/5/1954, Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ toàn thắng, cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi, một nửa đất nước sạch bóng quân thù, song cả dân tộc vẫn chịu nỗi đau chia cắt do âm mưu và hành động xâm lược của đế quốc Mỹ. Hòa bình lập lại trên miền Bắc nhưng trái tim Hồ Chí Minh chưa phút nào yên, vì miền Nam còn bị quân thù giày xéo. Người luôn trăn trở khôn nguôi về miền Nam, về sự nghiệp giải phóng đất nước vẫn còn chưa hoàn tất. Giải phóng miền Nam, thống nhất non sông, trở thành mục tiêu hàng đầu của mọi người Việt Nam yêu nước và đó cũng chính là quyết tâm không gì lay chuyển được của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo Nhân dân kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Cách mạng nước ta đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn canh cánh nỗi niềm với miền Nam thân yêu “Hình ảnh miền Nam yêu quý luôn ở trong trái tim tôi”. Khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trong Người cháy bỏng hơn lúc nào hết.

Để biến khát vọng đó thành hiện thực, Người cùng Trung ương Đảng luôn trăn trở tìm đường lối, phương pháp cách mạng cho từng giai đoạn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đầu năm 1959, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 đã xác định con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay Nhân dân. Năm 1962, tiếp Đoàn đại biểu miền Nam ra thăm miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ mong muốn miền Nam sớm được giải phóng để Người vào thăm đồng bào, cán bộ, chiến sĩ thân yêu ở miền Nam.

Đầu năm 1965, bị thất bại nặng nề trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh vào trực tiếp tham chiến, đồng thời dùng không quân, hải quân tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Nhân dân ta đứng trước thử thách nghiêm trọng, bạn bè quốc tế lo ngại liệu Việt Nam có thể đương đầu với Mỹ? Song với tư duy khoa học và biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã đánh giá đúng tương quan lực lượng ta - địch và đề ra chủ trương động viên cả nước kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào. Khi đế quốc Mỹ dùng máy bay ném bom Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng, ngày 17/ 7/1966, Người ra lời kêu gọi khẳng định quyết tâm chống Mỹ của nhân dân Việt Nam: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song Nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, Nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”.

Quán triệt tinh thần đó của Người, miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội với khí thế mới, nhiều nhà máy, xí nghiệp, công - nông trường được xây dựng, chỉ trong một thời gian ngắn “miền Bắc đã hoàn toàn thay da đổi thịt”. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh đã chuyển qua một giai đoạn mới - kết hợp chặt chẽ trên cả ba mặt đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và đấu tranh ngoại giao. Năm 1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, đánh thẳng vào trung tâm sào huyệt của hầu hết các tỉnh, thành phố, thị xã trên toàn chiến trường miền Nam, làm chấn động thế giới. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 và tiếp sau đó là Chiến dịch Đường 9-Nam Lào (năm 1971), nhất là sau cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam, trước tình thế cách mạng và thời cơ đã đến, Đảng quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên với trận đột phá chiến lược Buôn Ma Thuột (ngày 10/3/1975). Với chiến thắng này, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Sau khi Huế được giải phóng (26/3) và Đà Nẵng được giải phóng (29/3), đến ngày 3/4, giải phóng hoàn toàn các tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (ngày 26/4). Vào thời khắc lịch sử 11 giờ 30 phút trưa ngày 30/4/1975, lá cờ cách mạng phấp phới tung bay trên nóc phủ Tổng thống chính quyền Sài Gòn, chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ kính yêu toàn thắng, sự nghiệp giải phóng miền Nam kết thúc thắng lợi. Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, non sông liền một dải, đất nước thu về một mối. Khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ý chí, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân tộc Việt Nam về một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ sau những năm dài trường kỳ kháng chiến đã trở thành hiện thực.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Sự kiện trọng đại này đã làm thỏa nỗi khát khao cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phát huy niềm tự hào, truyền thống và giá trị lịch sử của Đại thắng mùa xuân 1975, mỗi người dân Việt Nam ra sức xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa và quyết tâm giữ vững hòa bình, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, biển đảo của Tổ quốc.

TS MINH DƯƠNG

Nguồn Lạng Sơn: https://baolangson.vn/giai-phong-mien-nam-thong-nhat-dat-nuoc-khat-vong-chay-bong-cua-chu-tich-ho-chi-minh-5006772.html