Đưa Luật Tài nguyên nước vào cuộc sống - Bài cuối: Hướng tới quản trị ngành nước bằng công nghệ số

Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đã góp phần thay đổi rất lớn phương thức quản trị tài nguyên nước ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Hướng tới quản trị tổng hợp ngành nước trên nền tảng công nghệ số, Nhà nước cần quản lý, sử dụng tài nguyên nước theo chu trình tuần hoàn, bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả, phục vụ đa mục tiêu, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững. Phóng viên TTXVN đã có cuộc trao đổi với ông Ngô Mạnh Hà, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Tài nguyên nước (Bộ Tài nguyên và Môi trường) để làm rõ vấn đề này.

Nhà máy nước sạch BOO Phú Ninh (Quảng Nam). Ảnh minh họa: Trần Tĩnh/TTXVN

Quốc hội khóa XV đã chính thức thông qua Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Điều có có ý nghĩa như nào trong bối cảnh hiện nay, thưa ông?

Luật Tài nguyên nước số 28/2023/QH15 được Quốc hội thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2023 đánh dấu một bước tiến rất lớn về tư duy, cách tiếp cận, thay đổi phương thức quản trị tài nguyên nước trong bối cảnh nguồn nước Việt Nam được đánh giá là “quá thừa, quá thiếu, quá bẩn” và bảo đảm tài nguyên nước được quản lý như tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo đúng tinh thần Hiến pháp năm 2013.

Với 10 Chương, 86 Điều, Luật Tài nguyên nước năm 2023 cơ bản đã tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất để: Phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước; bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia; chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm; phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước để khắc phục các chồng chéo, xung đột pháp luật. Hướng tới quản lý tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số và chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế (coi nước là hàng hóa thiết yếu, bảo đảm công bằng trong tiếp cận nguồn nước). Ưu tiên, khuyến khích thực hiện các hoạt động đầu tư phát triển, tích trữ nước và phục hồi nguồn nước theo hình thức xã hội hóa.

Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) sẽ mang đến những thay đổi căn bản, tạo ra những bước ngoặt như thế nào trong công tác quản lý Nhà nước về tài nguyên nước, thưa ông?

Luật Tài nguyên Nước số 28/2023/QH15 được ban hành với rất nhiều điểm mới, góp phần thay đổi rất lớn phương thức quản trị tài nguyên nước ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.

Một trong những thay đổi căn bản, cũng là nguyên tắc cốt lõi của Luật là nguồn nước phải được quản lý tổng hợp, thống nhất về số lượng và chất lượng, giữa nước mặt và nước dưới đất, giữa thượng lưu và hạ lưu; phân công, phân cấp rõ trách nhiệm quản lý Nhà nước về tài nguyên nước, nguồn nước với trách nhiệm quản lý nhà nước về quy hoạch, xây dựng, vận hành công trình thủy lợi, thủy điện, cấp nước đô thị, cấp nước nông thôn. Đây là nền tảng để nâng cao mức bảo đảm an ninh nguồn nước của Việt Nam.

Luật cũng được xây dựng theo hướng quy định tất cả các nội dung về quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống tác hại do nước gây ra đồng thời quy định rõ “quản cái gì, quản như thế nào và ai quản.” Theo đó, Luật đã quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Xây dựng,... theo chức năng nhiệm vụ đã được giao tại các luật có liên quan để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất; giải quyết cơ bản những chồng chéo, đan xen, xung đột, có “lỗ hổng” trong các luật.

Luật quy định rõ chính sách ưu tiên hàng đầu là hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa công tác quản lý tài nguyên nước hướng tới quản trị tài nguyên nước quốc gia trên nền tảng công nghệ số thông qua Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước Quốc gia, hệ thống công cụ hỗ trợ ra quyết định phục vụ điều hòa, phân phối tài nguyên nước. Từ đó hỗ trợ các cơ quan quản lý trong quá trình quyết định điều hòa, phân phối tài nguyên nước, vận hành hồ chứa, liên hồ chứa, giảm thiểu tác hại do nước gây ra, đặc biệt khi xảy ra tình trạng hạn hán, thiếu nước trên các lưu vực sông, bảo đảm việc sử dụng, bảo vệ các nguồn nước hiệu quả, bảo đảm an ninh nguồn nước.

Luật Tài nguyên nước có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn đòi hỏi công tác quản lý phải chuyển đổi phù hợp. Ông có thể chia sẻ sâu hơn về kế hoạch quản trị tài nguyên nước quốc gia trên nền tảng công nghệ số?

Hiện các nước tiên tiến trong khu vực đã triển khai công nghệ số trong quản trị tài nguyên nước (tức là chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế) tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang đi sau.

Hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa công tác quản lý tài nguyên nước hướng tới quản trị tài nguyên nước quốc gia trên nền tảng công nghệ số là một trong những điểm nổi bật của Luật Tài nguyên nước. Nền tảng công nghệ số sẽ được đẩy mạnh ứng dụng trong việc hỗ trợ các cơ quan quản lý trong quá trình quyết định điều hòa, phân phối tài nguyên nước, vận hành hồ chứa, liên hồ chứa, giảm thiểu tác hại do nước gây ra, đặc biệt khi xảy ra tình trạng hạn hán, thiếu nước trên các lưu vực sông.

Ví dụ liên quan đến đẩy mạnh công nghệ số, thì việc ban hành kịp thời các Quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm bảo đảm sử dụng tổng hợp nguồn nước và phòng, chống tác hại do nước gây ra. Theo đó, Luật đã có những điều khoản để vận hành các hồ chứa theo thời gian thực để tất cả những thông tin dữ liệu hay quyết định điều hành của các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ vừa cân bằng giữa bảo vệ an toàn cấp nước cho người dân hạ du vừa cân bằng phát triển kinh tế- xã hội.

Hiện, Cục Quản lý Tài nguyên nước cũng đang lên kế hoạch xây dựng các hệ thống công cụ số, mô hình toán để hỗ trợ Bộ Tài nguyên và Môi trường ra quyết định điều hòa, phân phối nguồn nước trên lưu vực sông lớn theo quy định; hoàn thiện, nâng cao chất lượng cảnh báo, dự báo khí tượng thủy văn, tài nguyên nước.

Để quy định pháp luật về bảo vệ nguồn tài nguyên nước thực sự đi vào đời sống xã hội, được người dân đồng thuận, tự giác làm theo, theo ông, thời gian tới, ngay sau khi Luật Tài nguyên nước có hiệu lực, cần triển khai những công việc cụ thể gì?

Luật Tài nguyên nước số 28/2023/QH15 có hiệu lực từ ngày 1/7/2024, để bảo đảm các quy định của Luật được triển khai có hiệu quả thì ngay khi Luật được Quốc hội thông qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã và đang tiếp tục phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan có liên quan khẩn trương thực hiện một số nhiệm vụ như: Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Tài nguyên nước; ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật; xây dựng để ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy định chi tiết các nội dung được giao trong Luật.

Để quy định pháp luật về tài nguyên nước thực sự đi vào đời sống xã hội, được người dân đồng thuận, tự giác làm theo thì thời gian tới (dự kiến quý II và III năm 2024) Cục sẽ tổ chức các Hội nghị quán triệt, phổ biến Luật Tài nguyên nước và các văn bản quy định chi tiết một số điều của Luật đối với các bộ, ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp… Đồng thời, Cục sẽ phối hợp với các cơ quan truyền thông để thường xuyên đăng tải, tuyên truyền các quy định của Luật và văn bản dưới Luật trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Trân trọng cảm ơn ông!

Diệu Thúy/TTXVN ( thực hiện)

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/xa-hoi/dua-luat-tai-nguyen-nuoc-vao-cuoc-song-bai-cuoi-huong-toi-quan-tri-nganh-nuoc-bang-cong-nghe-so-20240110172145555.htm