ĐBQH LÊ NHẬT THÀNH: NHIỀU NỘI DUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỔI MỚI, SẮP XẾP TỔ CHỨC BỘ MÁY, CÁN BỘ CỦA TÒA ÁN CẦN ĐƯỢC NGHIÊN CỨU PHÙ HỢP VỚI NHIỆM VỤ CẢI CÁCH TƯ PHÁP

Đại biểu Lê Nhật Thành – Đoàn ĐBQH Tp.Hà Nội cho rằng, dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) có nhiều nội dung liên quan đến đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy, cán bộ của Tòa án từ Trung ương đến địa phương. Vì vậy, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cần nghiên cứu, bảo đảm quán triệt đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng, phù hợp với phương hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp trong thời gian tới.

Thực hiện chương trình kỳ họp thứ 6, chiều 09/11, Quốc hội thảo luận ở Tổ về dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) và dự kiến thảo luận tại Hội trường về dự thảo Luật này vào ngày 22/11 tới.

Dự thảo Luật Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) gồm 8 chương, 154 Điều với nhiều điểm mới nhưng vẫn đảm bảo phù hợp với Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết 27) và các nghị quyết, văn kiện của Đảng; bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và cơ bản tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Việc sửa đổi Luật Tổ chức TAND liên quan đến nhiều quy định của các luật khác nhau.

Để bảo đảm tính thống nhất của dự thảo Luật với hệ thống pháp luật, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đã đề nghị Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) tiếp tục rà soát các luật có liên quan, nhất là các luật trong lĩnh vực tư pháp, như: các luật tố tụng, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự,… và đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

Quốc hội nghe Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình trình bày Tờ trình về dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi).

Thay mặt cơ quan thẩm tra dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga nhấn mạnh: Ủy ban Tư pháp cơ bản tán thành sự cần thiết sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) năm 2014 nhằm đẩy mạnh cải cách tư pháp, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Dự thảo Luật phù hợp với các nghị quyết, văn kiện của Đảng; bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và cơ bản tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.

Để bảo đảm tính thống nhất của dự thảo Luật với hệ thống pháp luật, Ủy ban Tư pháp đề nghị TANDTC tiếp tục rà soát các luật có liên quan, nhất là các luật trong lĩnh vực tư pháp và đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Hồ sơ dự án Luật đã được TANDTC chuẩn bị công phu, cơ bản đáp ứng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, thảo luận.

Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga cho biết, về nội dung Tòa án thực hiện quyền tư pháp (khoản 1 Điều 3), đa số ý kiến Ủy ban Tư pháp tán thành cần quy định nội dung Tòa án thực hiện quyền tư pháp trong dự thảo Luật, với lý do: Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”, nhưng từ đó đến nay nội dung Tòa án thực hiện quyền tư pháp chưa được cụ thể hóa nên chưa được hiểu thống nhất. Quy định nội dung Tòa án thực hiện quyền tư pháp để thể chế hóa Nghị quyết 27 và cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013.

Tuy nhiên, Ủy ban Tư pháp đề nghị Cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát khoản 1 Điều 3 dự thảo Luật để quy định đầy đủ, cụ thể nội dung Tòa án thực hiện quyền tư pháp, bảo đảm sự liên thông, kết nối với các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án tại khoản 2 Điều 3 dự thảo Luật.

Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga.

Một số ý kiến cho rằng, Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Tổ chức Chính phủ không quy định nội dung quyền lập pháp, quyền hành pháp. Khi xây dựng và ban hành Nghị quyết 27, Ban Chấp hành Trung ương Đảng không đưa nội dung Tòa án thực hiện quyền tư pháp vào Nghị quyết. Việc làm rõ nội dung Tòa án thực hiện quyền tư pháp là vấn đề lớn, phức tạp, có liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của TAND và các cơ quan tư pháp khác nhưng vẫn chưa có sự thống nhất cao. Do đó, Ủy ban Tư pháp đề nghị không quy định nội dung này trong dự thảo Luật, mà cần xác định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Tòa án để quy định cho phù hợp và có cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả.

Về điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ (Điều 15), Ủy ban Tư pháp cơ bản tán thành với dự thảo Luật, theo đó: Đối với vụ án hình sự, việc khởi tố, điều tra, truy tố thuộc trách nhiệm của Cơ quan điều tra (CQĐT) và Viện kiểm sát. Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do CQĐT và Viện kiểm sát thu thập trong hồ sơ vụ án, sau khi đã kiểm tra, làm rõ tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa để ra phán quyết về vụ án; nếu thiếu chứng cứ hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm... thì Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Đối với vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nghĩa vụ thu thập chứng cứ (TTCC) và chứng minh thuộc về đương sự. Tòa án không có trách nhiệm TTCC mà chỉ hướng dẫn, yêu cầu các đương sự TTCC; nếu đương sự là người yếu thế trong xã hội thì Tòa án hỗ trợ đương sự TTCC.

Theo Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga, có ý kiến không tán thành với dự thảo Luật, với lý do: Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính thì Tòa án chỉ tiến hành TTCC trong trường hợp nhất định, phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta. Theo đó, đối với vụ án hình sự nếu tại phiên tòa phát sinh vấn đề cần xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ thì Tòa án tạm ngừng phiên tòa để thực hiện; vụ việc dân sự, vụ án hành chính thì Tòa án chỉ TTCC nếu đương sự không thu thập được và có yêu cầu. Việc TTCC ở nước ngoài thì Tòa án thông qua cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam yêu cầu cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thu thập. Nghị quyết 27 yêu cầu: “Nghiên cứu làm rõ… những trường hợp Tòa án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử”. Do đó, Ủy ban Tư pháp đề nghị quy định những trường hợp Tòa án TTCC để thể chế hóa Nghị quyết 27 và phù hợp với điều kiện của nước ta.

Các đại biểu Quốc hội tham dự kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV.

Về Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia (chương III), Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga nêu rõ, Ủy ban Tư pháp cơ bản tán thành với dự thảo Luật, với lý do: Hiến pháp năm 2013 không quy định về Hội đồng tư pháp quốc gia. Khi xây dựng và ban hành Nghị quyết 27, Ban Chấp hành Trung ương Đảng không đưa nội dung thành lập Hội đồng tư pháp quốc gia vào Nghị quyết. Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia được thành lập theo Luật hiện hành và đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Do đó, không cần thành lập Hội đồng tư pháp quốc gia mà giữ nguyên quy định hiện hành; đồng thời nghiên cứu, bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn để Hội đồng này hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, góp phần bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử, phù hợp với thể chế chính trị của nước ta.

Có ý kiến đề nghị thành lập “Hội đồng tư pháp quốc gia” nhằm từng bước “Hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp tòa án là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử” theo tinh thần của Nghị quyết 27.

Về việc đổi mới Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện theo thẩm quyền xét xử (khoản 1 Điều 4), đa số ý kiến Ủy ban Tư pháp không tán thành với dự thảo Luật, với lý do: việc “đổi tên gọi” chỉ là vấn đề hình thức, chỉ thay đổi tên gọi mà không thay đổi nội dung; các Tòa án này vẫn gắn với các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp tỉnh và giữ nguyên về thẩm quyền xét xử. Việc thay đổi này dẫn tới không tương thích về tổ chức với các cơ quan tư pháp khác ở địa phương; phải sửa đổi nhiều luật liên quan để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật; phát sinh chi phí tuân thủ. Do đó, Ủy ban Tư pháp đề nghị giữ tên gọi của các Tòa án này như Luật hiện hành đang quy định.

Một số ý kiến tán thành với dự thảo Luật để thể chế hóa Nghị quyết 27. Việc đổi mới các Tòa án nêu trên khẳng định đúng bản chất để bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử; quan hệ giữa các Tòa án là quan hệ tố tụng, không phải là quan hệ hành chính và bảo đảm nguyên tắc độc lập giữa các cấp xét xử; việc đổi mới các Tòa án không ảnh hưởng đến sự lãnh đạo của Đảng, giám sát của cơ quan dân cử và sự phối hợp công tác với cơ quan tư pháp cùng cấp.

Cân nhắc việc giữ nguyên tên như hiện hành, tránh làm tăng chi phí khi triển khai Luật trong thực tiễn

Đóng góp vào việc hoàn thiện dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), đại biểu Lê Nhật Thành – Đoàn ĐBQH Tp.Hà Nội nhất trí với sự cần thiết xây dựng dự thảo Luật nhằm xây dựng nền tư pháp độc lập, chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, đặc biệt là cụ thể hóa những chủ trương đã được nêu trong Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành hành trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

Trên cơ sở nội dung hồ sơ dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), để tiếp tục hoàn thiện dự thảo Luật, đại biểu Lê Nhật Thành cho rằng, đối với những quan điểm, chính sách sửa đổi lớn cần phải được nghiên cứu thận trọng, kỹ lưỡng, toàn diện cả về lý luận và thực tiễn. Do việc hoàn thiện tổ chức, hoạt động của Tòa án có tác động trực tiếp tới việc hoàn thiện tổ chức, hoạt động của viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án, đồng thời cần phải bám sát các chủ trương, chính sách, quan điểm của Đảng đã đề ra trong Nghị quyết số 27-NQ/TW, đồng thời phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật hiện hành, tránh trùng dẫm, chồng chéo gây khó khăn trong thực tiễn thi hành.

Đại biểu Lê Nhật Thành – Đoàn ĐBQH Tp.Hà Nội.

Về phạm vi của dự thảo Luật cần tiếp tục kế thừa quy định của Luật hiện hành đã phát huy hiệu quả trong thời gian qua, đồng thời dự thảo luật này về bản chất là một luật quy định về tổ chức bộ máy, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo không quy định sang các lĩnh vực khác, không quy định lại những vấn đề luật khác đã được quy định, tất cả các quy định mới phải bảo đảm cơ sở chính trị, tính thống nhất của các quy định của pháp luật.

Theo đại biểu Lê Nhật Thành, tại khoản 1 Điều 3 quy định “Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp bao gồm quyền xét xử, quyền quyết định các tranh chấp, vi phạm pháp luật; về những vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân; quyền giải thích áp dụng pháp luật và bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử”. Nội dung này có thể dẫn đến cách hiểu nội hàm quyền tư pháp chỉ bao gồm những quyền này, trong khi đó quyền tư pháp còn do nhiều cơ quan khác cùng thực hiện với nhiều nội dung khác nhau. Khi xây dựng, ban hành Nghị quyết 27-NQ/TW, Ban Chấp hành Trung ương không đưa nội hàm quyền tư pháp vào trong Nghị quyết và đã đề ra chỉ đạo: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự giám sát của Nhân dân.

Dự thảo Luật có nhiều nội dung liên quan đến đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy, cán bộ của Tòa án từ Trung ương đến địa phương, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cần nghiên cứu, bảo đảm quán triệt đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng, phù hợp với phương hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp trong thời gian tới. Trong dự thảo Luật dự kiến đổi tên Tòa án nhân dân các cấp nhưng không thay đổi về chức năng, nhiệm vụ và vẫn dùng tên tỉnh và thành phố, địa phương đặt sau cụm từ sơ thẩm, phúc thẩm.

Đại biểu Lê Nhật Thành đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cần đánh giá kỹ lưỡng giữa chi phí và lợi ích của việc đổi tên, làm rõ cần phải sửa đổi bao nhiêu văn bản quy phạm pháp luật có liên quan và chi phí cho việc sửa đổi con dấu, biển hiệu, các loại mẫu giấy tờ, bảng chức danh… và bảo đảm tính đồng bộ với các cơ quan tiến hành tố tụng khác như thế nào? Đại biểu Lê Nhật Thành đề nghị cân nhắc việc giữ nguyên tên như hiện hành là hợp lý, tránh làm tăng chi phí khi triển khai Luật trong thực tiễn trong khi lợi ích của việc đổi tên Tòa án các cấp là không lớn.

Việc thành lập Hội đồng Tư pháp quốc gia là vấn đề lớn, cần được đánh giá kỹ lưỡng trên cơ sở nghiên cứu lý luận, địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ của cơ chế này cũng như kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới. Tại dự thảo Báo cáo tổng kết thực tiễn thi hành Luật và Báo cáo đánh giá tác động, cơ quan chủ trì soạn thảo chưa làm rõ được sự cần thiết thành lập Hội đồng Tư pháp quốc gia cũng như xác định rõ vị trí, địa vị pháp lý, cơ chế hoạt động của Hội đồng Tư pháp quốc gia. Bên cạnh đó, việc đổi tên Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia thành Hội đồng tư pháp quốc gia và bổ sung một số chức năng, nhiệm vụ so với trước, những chức năng, nhiệm vụ mới này Tòa án nhân dân tối cao có thể thực hiện ngay được mà không cần phải quy định qua một tổ chức trung gian như “Đề xuất kinh phí hoạt động, chế độ, chính sách hay giám sát việc phân bổ biên chế, kinh phí cho tòa các cấp…”. Đặc biệt là trong bối cảnh cả hệ thống chính trị đang thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Đối với quy định “xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật trong xét xử”, đại biểu Lê Nhật Thành cho rằng, đây là thẩm quyền của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội được quy định trong Hiến pháp năm 2013 được quy định tại Điều 70, 74 Hiến pháp năm 2013. Theo quy định từ Điều 102 đến Điều 106 của Hiến pháp năm 2013 quy định về Tòa án nhân dân thì chưa có quy định nào giao cho Tòa án thực hiện quyền “xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật trong xét xử”.

Qua rà soát có thể thấy rằng, chỉ có Điều 6 của Luật Tố tụng hành chính là có quy định “xem xét, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, hành vi hành chính có liên quan trong vụ án hành chính”, nhưng quy định này chỉ giới hạn trong quá trình giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án, chứ không phải tất cả các loại văn bản quy phạm pháp luật như dự thảo Luật. Đây là một nội dung lớn cần được nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn rất cụ thể, đồng thời cần có đánh giá tác động rõ ràng bảo đảm phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, áp dụng phù hợp với điều kiện tình hình kinh tế, xã hội thực tiễn của đất nước trong tình hình hiện nay./.

Bích Lan

Nguồn Quốc Hội: https://quochoi.vn/hoatdongdbqh/pages/tin-hoat-dong-dai-bieu.aspx?itemid=81989