Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thể hiện bản lĩnh chính trị của Đảng ta trong tình hình hiện nay

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng là mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta từ trước đến nay, đặc biệt trong bối cảnh phức tạp của tình hình kinh tế và chính trị thế giới, cũng như quá trình phát triển kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế như hiện nay ở nước ta.

(ĐCSVN) -

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã rút ra năm bài học lớn của cách mạng nước ta, trong đó có bài học số một là “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Có thể nói, đây là sự tổng kết sâu sắc về lịch sử và lý luận của quá trình cách mạng nước ta, thể hiện trong đường lối cách mạng của Đảng, trong tất cả các cương lĩnh chính trị của Đảng từ khi Đảng ta ra đời cho đến nay. Nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng phù hợp trong từng thời kỳ lịch sử là một trong những nguyên nhân của thành tựu cách mạng nước ta. Đại hội XI của Đảng đã yêu cầu phải “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH”, coi đây là một nội dung của công tác xây dựng Đảng về chính trị, của việc nâng cao bản lĩnh chính trị của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên.

1 . Ngay từ khi ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn khẳng định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta; đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử dân tộc hơn 80 năm qua đã chứng tỏ con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn của Đảng và cũng chính là sự lựa chọn của nhân dân.

Đi lên chủ nghĩa xã hội là “sợi chỉ đỏ”, xuyên suốt trong đường lối cách mạng Việt Nam. Không phải chỉ khi giành được chính quyền, đất nước hòa bình, nhiệm vụ kiến quốc đặt lên hàng đầu, mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mới được đặt ra mà ngay cả trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, khi nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu thì đi lên chủ nghĩa xã hội đã là mục tiêu, là sự lựa chọn của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy “con đường giải phóng chúng ta”. Đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ, “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn” (1), “có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”(2). Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiền đề đặt nền móng cho việc hình thành nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt - Cương lĩnh đầu tiên của Đảng chỉ rõ: Cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn. Giai đoạn đầu là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng” (tức là cách mạng dân tộc dân chủ), thực hiện mục tiêu “Độc lập dân tộc và người cày có ruộng”. Giai đoạn tiếp theo là: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, đưa đất nước từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Hai giai đoạn cách mạng này có quan hệ biện chứng với nhau. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải giành được độc lập dân tộc và có đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ vững được độc lập dân tộc và xây dựng được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Trong Cương lĩnh chính trị năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương khẳng định, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là con đường bỏ qua “thời kỳ tư bổn”. Nhờ sự giúp đỡ quốc tế mà “tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”. Chủ trương này của Đảng phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam.

Trên cơ sở đường lối cách mạng mà Cương lĩnh chính trị năm 1930 đã xác định và căn cứ vào tình hình thực tế đất nước, Đảng đã kết hợp đúng đắn mục tiêu chiến lược và sách lược, linh hoạt, sáng tạo trong vận dụng các hình thức đấu tranh. Khi tình thế cách mạng xuất hiện, Đảng xác định: Tất cả các vấn đề khác, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm cái mục đích giải phóng dân tộc mà giải quyết. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu nhằm: “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành độc lập cho xứ sở. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”(3).

Ngay trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng xác định: Con đường từ dân chủ mới lên chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn, gian khổ cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục.

Từ Đại hội II của Đảng (2-1951), trong Chính cương Đảng Lao động Việt Nam bước đầu hình thành quan điểm về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh chỉ rõ: “Trong quá trình chủ yếu của nó, cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân Việt Nam chưa vượt qua khuôn khổ dân chủ tư sản. Nhưng phát triển đến một mức nào đó thì cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sẽ chuyển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường đấu tranh lâu dài. Sau khi miền Bắc được giải phóng, Đảng ta bắt đầu quá trình tìm tòi và đề ra những quan điểm về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đại hội III của Đảng (9-1960) đề ra đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là: “Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em… để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”(4).

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đại hội IV của Đảng (12-1976) chỉ rõ, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới “giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất làm nhiệm vụ chiến lược duy nhất là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”(5).

Tuy nhiên, do mắc phải sai lầm của bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội, giản đơn trong chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật hoạt động trong thời kỳ quá độ nên đã làm cho nền kinh tế - xã hội lâm vào cuộc khủng hoảng kéo dài.

Nhằm khắc phục những sai lầm đó, Đảng đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội VI của Đảng (12-1986) đưa ra đường lối đổi mới toàn diện, từ đổi mới tư duy đến đổi mới hoạt động thực tiễn của Đảng, Nhà nước và nhân dân trên tất cả các lĩnh vực. Đại hội VII thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó vạch ra sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa và bảy phương hướng cơ bản cần nắm vững trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đại hội VIII khẳng định, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn; nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đã cơ bản hoàn thành chặng đường đầu của thời kỳ quá độ và cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội IX đã bổ sung, làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề về mục tiêu, động lực, về mô hình kinh tế tổng quát, về bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội X trên cơ sở tổng kết 20 năm đổi mới đã khẳng định: Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản (6).

Đại hội XI đã tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, bổ sung phát triển thành Cương lĩnh năm 2011. Cương lĩnh đã xác định những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, vạch ra các phương hướng cơ bản và những mối quan hệ lớn cần phải nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cương lĩnh khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử” (7).

Như vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là ngọn cờ, là sự lựa chọn nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta trong suốt hơn 80 năm qua. Dù trong hoàn cảnh nào, lúc thuận lợi hay khó khăn, kể cả khi trong tình thế “hiểm nghèo”, Đảng ta vẫn không rời xa mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bởi vì con đường xã hội chủ nghĩa là con đường đúng đắn, phù hợp với quy luật và xu thế phát triển của thời đại. Chỉ có con đường xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm dân tộc độc lập thực sự, đất nước phát triển phồn vinh, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, mới thực hiện được mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

2. Ngày nay, trong bối cảnh phức tạp mới của tình hình, khi mà chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào, còn chủ nghĩa tư bản thì tiếp tục tồn tại và phát triển, nhất là về kinh tế thì vấn đề con đường xã hội chủ nghĩa lại được đặt ra cả trên bình diện quốc tế và ở nước ta.

Ở nước ta, bên cạnh những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta giành được trong 25 năm đổi mới, đất nước ta cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức không nhỏ. Tình trạng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn ra nghiêm trọng, chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùi; tình trạng phai nhạt lý tưởng, giảm sút niềm tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin, vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa... Bên cạnh đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không ngừng đẩy mạnh âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” kết hợp gây bạo loạn lật đổ nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trước tình hình đó, các thế lực cơ hội chính trị và một số người muốn phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đại diện cho con đường xã hội chủ nghĩa. Họ cho rằng “chủ nghĩa xã hội là con đường không có tương lai”, “đi vào ngõ cụt”, “đã bị lịch sử phủ định”; “ngày xưa trong thời kỳ phong kiến đã có chủ nghĩa xã hội đâu mà vẫn giữ được độc lập dân tộc”; “lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là do ý chí chủ quan của Đảng” hoặc “chủ nghĩa nào, chế độ nào cũng được, miễn là dân giàu nước mạnh”... Chúng ta thử phân tích những quan điểm trên đây.

Trong thời kỳ trước đây, ở nước ta, các triều đại phong kiến tiến bộ đại diện cho dân tộc đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống ngoại xâm, giành độc lập cho đất nước. Khi đó chưa có chủ nghĩa xã hội. Trên thế giới, chủ nghĩa xã hội được đặt ra về lý luận khoa học khi chủ nghĩa Mác ra đời, về thực tiễn khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Do đó, nếu đặt vấn đề về chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời đại phong kiến là phi lịch sử và cũng không thể dựa vào đó để phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa của nước ta trong thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Còn những quan điểm phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã có cái nhìn sai lệch về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, nó cường điệu những thành tựu của chủ nghĩa tư bản mà không thấy hoặc coi nhẹ những khuyết tật, mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản; mặt khác họ định kiến với chủ nghĩa xã hội, với những sai lầm mà trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước này, hoặc nước kia đã mắc phải. Họ đồng nhất chủ nghĩa xã hội hiện nay với những khuyết tật trong mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết trước đây, không thấy những thành tựu đổi mới chủ nghĩa xã hội đang diễn ra ở Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cu ba. Như chúng ta đã chứng kiến, chủ nghĩa tư bản trong quá trình tồn tại của mình, mặc dù trải qua nhiều cuộc khủng hoảng và suy thoái, nhiều bước quanh co, phức tạp, gây ra nhiều tội ác cho loài người (chiến tranh xâm lược, nạn khủng bố, hủy diệt, phân biệt chủng tộc...), song đã tạo ra những lực lượng sản xuất khổng lồ, hiện đại, thúc đẩy nền văn minh nhân loại.

Chủ nghĩa tư bản là một chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, song hiện tại vẫn còn tiềm năng phát triển, nhất là về kinh tế nhờ ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ, cải tiến phương pháp quản lý, thay đổi cơ cấu sản xuất điều chỉnh các hình thức sở hữu và chính sách xã hội. Tuy vậy, những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa - được biểu hiện thành mâu thuẫn giữa tư bản và lao động - chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc... Đặc biệt, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu những năm 2008-2009 và cuộc khủng hoảng nợ công hiện nay là cuộc khủng hoảng lớn nhất của chủ nghĩa tư bản trong 80 năm qua và là một cuộc khủng hoảng nhiều mặt: tài chính, tiền tệ, thương mại, cơ cấu, thể chế và mô hình phát triển. Chủ nghĩa tư bản hiện đại về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Chủ nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được những mâu thuẫn nan giải của mình, muốn giải quyết phải thay thế chủ nghĩa tư bản bằng một chế độ xã hội tiến bộ hơn, nhân đạo hơn, đó là chủ nghĩa xã hội (đổi mới). Đúng như Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định, chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản.

Còn chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu bị sụp đổ, có nguyên nhân khách quan và chủ quan mang tính lịch sử - cụ thể. Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, đã từng là chỗ dựa cho phong trào hòa bình và cách mạng thế giới, cho việc đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt nhân, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhưng do chậm khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết trong mô hình chủ nghĩa xã hội, lại mắc phải những sai lầm nghiêm trọng về đường lối cải tổ, cộng với sự chống phá của các thế lực đế quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã bị sụp đổ. Tuy nhiên, đó không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung, mà chỉ là sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội - mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp. Chủ nghĩa xã hội với những phẩm giá tốt đẹp của nó vẫn là lý tưởng mà nhân loại tiến bộ đang hướng tới, những giá trị cao cả của nó vẫn tồn tại trong đời sống nhân loại. Sau trận động đất chính trị đó, các nước tiến theo con đường xã hội chủ nghĩa còn lại vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Một số nước tiến hành cải cách đổi mới giành được những thành tựu to lớn; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế từng bước được phục hồi, có sự tập hợp lực lượng mới; phong trào “cánh tả" ở Tây Âu và Mỹ Latinh có bước phát triển mới, phong trào "chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” nổi lên ở nhiều nước Mỹ Latinh.

Còn việc chúng ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa không phải là do ý muốn chủ quan của Đảng mà đây là tổng hợp điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, kinh tế và chính trị, trong nước và quốc tế, phản ánh khát vọng của dân tộc. Sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa cũng là sự lựa chọn của chính lịch sử từ hơn 80 năm về trước. Năm 1930, giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé về kinh tế, non yếu về chính trị, không nắm được vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Với sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái năm 1930, vai trò của nó cũng chấm dứt. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo cách mạng, đặt nền móng cho con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Đảng ta trở thành đảng cầm quyền.

Năm 1954, hoàn thành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giải phóng miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Đại thắng Mùa Xuân năm 1975, đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Năm 1986, trong bối cảnh cực kỳ khó khăn do chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đứng trước nguy cơ tan rã và khủng hoảng kinh tế - xã hội trong nước kéo dài, Đảng ta đã khởi xướng công cuộc đổi mới, tạo một bước ngoặt mang ý nghĩa cách mạng cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhờ công cuộc đổi mới 25 năm qua, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi căn bản bộ mặt đất nước, tạo ra thế và lực mới cho đất nước, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.

Có thể khẳng định rằng, các sự kiện trong những năm 1930, 1945, 1954, 1975, 1986 đã trở thành những cột mốc lịch sử quan trọng cho sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, tạo thành sợi dây lôgíc - lịch sử của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Lịch sử cận đại và hiện đại nước ta đã khẳng định, con đường cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay do Đảng Cộng sản chân chính lãnh đạo tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. Có vậy, độc lập dân tộc mới triệt để. Chống đế quốc tức là chống áp bức, bóc lột, mà muốn chống áp bức, bóc lột triệt để phải xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Con đường tư bản chủ nghĩa là con đường đầy rẫy khuyết tật, là con đường đầy máu và nước mắt nên chúng ta không thể lựa chọn con đường đó. Đảng Cộng sản Việt Nam là một Đảng Mác-Lênin chân chính, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn gắn bó với nhân dân, dày dạn trong đấu tranh cách mạng, có nhiều kinh nghiệm cách mạng, hoàn toàn có khả năng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Tuy nhiên, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, điều kiện tiên quyết, yếu tố quyết định là Đảng phải vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, về trí tuệ và đạo đức; phải tiếp tục coi trọng công tác xây dựng Đảng để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong tình hình mới. Toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độ

Nguồn ĐCSVN: http://www.cpv.org.vn/cpv/modules/news/newsdetail.aspx?cn_id=480519&co_id=30296