Hoạt động hội nhập tài chính năm 2015 và những chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo

Hội nhập kinh tế quốc tế đóng vai trò quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế và vị thế chính trị của Việt Nam với thế giới. Trong năm 2015, công tác hội nhập và hợp tác tài chính của Bộ Tài chính đã góp phần tích cực thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế và cải cách kinh tế trong nước thông qua việc thúc đẩy các hoạt động thương mại quốc tế, chuyển đổi cơ cấu ngành, vùng.

Công tác hội nhập và hợp tác tài chính của Bộ Tài chính đã góp phần tích cực thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế và cải cách kinh tế trong nước.

Năm 2015, ngành Tài chính đã tích cực triển khai xây dựngphương án đàm phán, phương án kết thúc các hiệp định thương mại tự do (FTA),trong đó có Hiệp định đối tác kinh tế Xuyên Thái Bình Dương (TPP) và FTA songphương với Liên minh châu Âu (EU); Hiệp định FTA Việt Nam - Hàn Quốc (có hiệu lựctừ ngày 20/12/2015), Hiệp định FTA Việt Nam-Liên minh Kinh tế Á Âu (đã ký kếtvà dự kiến có hiệu lực trong năm 2016); đồng thời, tiếp tục rà soát, chuyển đôỉbiểu thuế và ban hành Thông tư ban hành Biểu thuế cho các FTA đang thực hiện vàvừa ký kết.

Cam kết thương mại hànghóa

Tiếp tục cắt giảmthuế nhập khẩu theo lộ trình

Xét về thương mại hànghóa, theo số liệu xuất nhập khẩu của Tổng cục Hải quan, các đối tác FTA của ViệtNam đều là các đối tác thương mại quan trọng, thể hiện ở giá trị thương mại lớnvà tỷ trọng cao trên tổng số liệu thương mại với thế giới của Việt Nam hàng năm.Thương mại của Việt Nam với các đối tác đã và đang đàm phán luôn chiếm trên 80%tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam. Trong năm 2015, quan hệ thương mại vơícác đối tác FTA theo tỷ trọng như sau: Trung Quốc đứng đầu chiếm 20% tổng kimngạch thương mại hai chiều của Việt Nam với thế giới, tiếp đó là ASEAN khoảng12,8%; Hoa Kỳ khoảng 12,7%; EU khoảng 12,5%, Hàn Quốc khoảng 11,3%, Nhật Bảnkhoảng 8,7%...

Năm 2015, Bộ Tài chínhtiếp tục thực hiện lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu trong khuôn khổ 8 FTA đã cóhiệu lực theo các Thông tư ban hành Biểu thuế ưu đãi đặc biệt cho giai đoạn2015-2018. Cụ thể: Thông tư số 162/2013/TT-BTC ngày 15/11/2013 ban hành Biêủthuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt Việt Nam - Chi Lê; Thông tư số 165/2014/TT-BTC,166/2014/TT-BTC, 167/2014/TT-BTC, 168/2014/TT-BTC, 169/2014/TT-BTC ngày14/11/2014 về việc ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt ASEAN, ASEAN -Trung Quốc, ASEAN - Hàn Quốc, ASEAN – Australia – NewZiland, ASEAN - Ấn Độ giaiđoạn 2015-2018; Thông tư số 24/2015/TT-BTC, 25/2015/TT-BTC ngày 14/02/2015 vềviệc ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt ASEAN - Nhật Bản, Việt Nam -Nhật Bản giai đoạn 2015-2019; Thông tư số 44/2015/TT-BTC ngày 30/3/2015 sửa đôỉmức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt đối với một số nhóm mặt hàng trongBiểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt ASEAN - Hàn Quốc giai đoạn 2015-2018.

Bộ Tài chính cũng tíchcực trao đổi, lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp liên quan đến các Biểu thuế FTAđang thực hiện để kịp thời điều chỉnh chính sách phù hợp với nhu cầu doanh nghiệp,ngành hàng trong nước nhưng vẫn đảm bảo được cam kết của Việt Nam với các đôítác FTA.

Đối với 2 FTA vừa ký kết,Hiệp định Việt Nam-Hàn Quốc sẽ có hiệu lực từ ngày 20/12/2015 và Hiệp định ViệtNam-Liên minh kinh tế Á - Âu có hiệu lực từ 01/01/2016 phụ thuộc vào quy trìnhnội bộ trong nước của các bên. Tuy nhiên, Bộ Tài chính đã chủ động xây dựng lộtrình giảm thuế, lấy ý kiến doanh nghiệp và các bộ ngành liên quan để có thểban hành Thông tư ban hành biểu thuế đúng thời điểm khi Hiệp định có hiệu lực.

Trong hầu hết các FTAViệt Nam đã ký kết thì mức độ tự do hóa về thuế nhập khẩu trung bình khoảng 90%số dòng thuế, trừ Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) là Hiệp định nôịkhối với mức cam kết tự do hóa xấp xỉ 98%. Về lộ trình, FTA hoàn thành lộ trìnhsớm nhất là ATIGA (2018), tiếp đó là FTA ASEAN – Trung Quốc (2020) và FTA ASEANHàn Quốc (2021). Năm 2015 mức độ tự do hóa thuế quan của Việt Nam với các đôítác FTA đã ở mức khá cao: Trong ATIGA đạt khoảng 93%, ASEAN-Trung Quốc có 84% sốdòng thuế về 0%, ASEAN-Hàn Quốc có 78% và ASEAN - Nhật Bản là 62%. Theo đó, nhiêùmặt hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn từ ASEAN, Trung Quốc và Hàn Quốc được hưởngthuế 0% từ năm 2015 như sắt thép, phân bón, sản phẩm điện tử, xe tải, đồ điệngia dụng, máy móc thiết bị…

Cam kết về thuế nhập khâủtrong 2 khuôn khổ FTA thế hệ mới là TPP và Việt Nam - EU có tỷ lệ tự do hóa caohơn với lộ trình ngắn hơn, hướng tới cam kết xóa bỏ thuế quan đối với 100% sốdòng thuế, cụ thể như: Với EU, Việt Nam cam kết sẽ xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệpđịnh có hiệu lực với 48,5% số dòng thuế, tương đương 64,5% kim ngạch nhập khâủtừ EU và sau 10 năm là khoảng 99% số dòng thuế, tương đương 99,8% kim ngạch nhậpkhẩu từ EU. Đối với số dòng thuế còn lại, Việt Nam sẽ có lộ trình trên 10 nămhoặc dành ưu đãi cho EU trên cơ sở hạn ngạch thuế quan của WTO.

Trong khi đó, với TPP,Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế đối với khoảng 66% số dòng thuế ngay khi Hiệp địnhcó hiệu lực và xóa bỏ đối với 86,5% số dòng thuế sau 3 năm Hiệp định có hiệu lực.Các mặt hàng còn lại sẽ có lộ trình giảm thuế cơ bản từ 4-10 năm. Một số mặthàng đặc biệt nhạy cảm, Việt Nam cam kết lộ trình trên 10 năm hoặc hạn ngạchthuế quan.

Như vậy, cho đến nay phạmvi đối tác FTA của Việt Nam đã khá rộng và toàn diện, trong 3-5 năm tới sẽ chạmđến các dấu mốc quan trọng của nhiều Hiệp định và dần tiến đến tự do hóa thuếquan hầu hết các mặt hàng nhập khẩu với các đối tác thương mại chính. Với việcký kết 2 Hiệp định (FTA Việt Nam - Hàn Quốc, Hiệp định FTA Việt Nam-Liên minhKinh tế Á-Âu và tuyên bố kết thúc 2 Hiệp định quan trọng TPP và Việt Nam - EU,năm 2015 đã phác ra một bức tranh rõ ràng về khả năng tiếp cận thị trường ngàycàng tăng của hàng ngoại nhập và bức tranh thương mại của Việt Nam trong các nămtới đây.

Cam kết cắt giảm thuếxuất khẩu

Về thuế xuất khẩu, với WTO và các FTA đã ký kết, Việt Namkhông có nghĩa vụ phải xóa bỏ thuế xuất khẩu. Duy nhất Việt Nam chỉ cam kết đôívới nhóm hàng sắt thép, phế liệu kim loại sẽ được giảm thuế sau 5 năm gia nhậpWTO đến mức 17% và 22%, thực hiện từ năm 2007.

Trong các FTA thế hệ mơívới đặc thù là đàm phán với các nước phát triển nên các nước đều ủng hộ quan điểmxóa bỏ thuế xuất khẩu vì cho rằng thuế xuất khẩu là một hình thức trợ cấp cho sảnxuất trong nước, gây bóp méo thương mại quốc tế. Trên tinh thần đó, Bộ Tàichính đã chủ động xây dựng phương án cam kết về thuế xuất khẩu với EU và các nướcTPP nhằm phù hợp với xu hướng quốc tế đồng thời vẫn đảm bảo nguồn thu NSNN, cụthể:

- Đối với EU, Việt Namcam kết xóa bỏ phần lớn thuế xuất khẩu với hàng xuất khẩu sang EU với lộ trìnhdài nhất là 15 năm. Những mặt hàng quan trọng còn lại sẽ tiếp tục được duy trìthuế xuất khẩu và áp dụng một mức trần thuế suất thuế xuất khẩu: (i) 546 mặthàng sẽ xóa bỏ thuế xuất khẩu với lộ trình 5-7-10-12-15 năm, trong đó có quặngtitan và tinh quặng titan; (ii) 57 mặt hàng sẽ áp dụng mức thuế suất thuế xuấtkhẩu 10-20% đối với nhóm mặt hàng khoáng sản, quặng kim loại, than đá, vàng vàvàng trang sức.

- Trong TPP, Việt Nam bảolưu đối với khoảng 70 mặt hàng thuế xuất khẩu sẽ có mức thuế suất từ 2-40%,trong đó quan trọng nhất là bảo lưu được đối với nhóm than đá, dầu mỏ và một sốnhóm khoáng sản khác; Các mặt hàng còn lại có lộ trình xóa bỏ thuế xuất khâủngay hoặc trong vòng 5-7-10-15 năm.

Cam kết tự do hóa dịch vụtài chính

Cam kết về dịch vụ bảo hiểm và chứng khoán của Việt Nam đaỡ̉ mức tự do hóa cao trong WTO, chỉ bảo lưu một số ít các hạn chế về mở cửa thịtrường đối với nhà đầu tư nước ngoài như: Chưa cho phép thành lập chi nhánh bảohiểm nhân thọ của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, chưa cho phép cung cấp dịchvụ qua biên giới đối với dịch vụ nhượng tái bảo hiểm…

Việc gia nhập WTO tạo cơhội cho việc phát triển nhiều sản phẩm mới và thu hút các nhà đầu tư chuyênnghiệp, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán.Trong lĩnh vực bảo hiểm, đến nay Việt Nam đã thu hút được 30 doanh nghiệp bảohiểm có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và nhiều nhà đầu tư chiến lược nướcngoài đầu tư vào các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, góp phần nâng cao năng lựctài chính, năng lực quản trị điều hành, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sảnphẩm dịch vụ bảo hiểm. Các dịch vụ bảo hiểm đã được đa dạng hóa, bao quát hầu hếtcác loại hình tài sản của mọi thành phần kinh tế, mọi ngành kinh tế.

Trong các FTA đã ký kết,Việt Nam không mở cửa thêm dịch vụ bảo hiểm và chứng khoán so với cam kết WTO.Tuy nhiên, các đối tác phát triển như EU và Hoa Kỳ thường có nền dịch vụ pháttriển và đưa ra yêu cầu cao về mở cửa thị trường cũng như các quy định mangtính nguyên tắc nhằm ràng buộc chặt chẽ hơn nữa trách nhiệm của các nước thànhviên với nhà đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, quy mô thị trường chứng khoán vàbảo hiểm của Việt Nam còn hạn chế, vì vậy Bộ Tài chính đã xây dựng phương án vàtham gia đàm phán với EU và TPP trên nguyên tắc thận trọng, có bước đi phù hợp.Cam kết về dịch vụ trong các FTA thế hệ mới có một số điểm mới sau:

- Về phương thức camkết: Trước đây trong WTO và cácFTA đã ký kết, Việt Nam cam kết các ngành dịch vụ theo phương thức củaGATS/WTO, phương thức “chọn cho” (chỉ mở cửa lĩnh vực nào thì mới đưa ra trongbiểu cam kết), tuy nhiên TPP yêu cầu cam kết theo phương thức “chọn bỏ” (lĩnh vựcnào không nêu ra thì mặc nhiên là mở cửa hoàn toàn, không có bảo lưu nào) cũngdẫn đến những vấn đề thực thi sau này khi chính sách ban hành không được vượtra khỏi những biện pháp “không tương thích” (NCM) mà mỗi nước đã bảo lưu trongTPP.

- Các cam kết mangtính nguyên tắc: Ngoài các cam kếtmang tính nguyên tắc của WTO thì TPP và EU đưa ra một số nội dung mới, trong đócó:

+ Quy định cho phép nhàđầu tư nước ngoài kiện chính phủ (ISDS);

+ Cơ chế “ratchet” (chỉtiến không lùi) ràng buộc các nước thành viên khi tiến hành sửa đổi các biệnpháp bảo lưu thì việc sửa đổi và mức độ sửa đổi sẽ tự động trở thành nghĩa vụràng buộc mức độ tự do hóa thị trường của nước thành viên đó.

- Cam kết mới về mởcửa thị trường:

+ Mở cửa chi nhánh táibảo hiểm;

+ Nghĩa vụ cấp phép dịchvụ tài chính mới cho bất kì nước thành viên TPP/EVFTA nào;

+ Dành đối xử quốc gia cho các nhà cung cấp dịch vụ chứngkhoán nước ngoài đối với một số dịch vụ như xử lý dữ liệu tài chính qua biên giới;dịch vụ tư vấn và các dịch vụ phụ trợ qua biên giới liên quan tới giao dịch tàikhoản tự doanh hoặc tài khoản của khách hàng;

+ Mở cửa dịch vụ quảnlý danh mục đầu tư qua biên giới.

Ngoài dịch vụ tài chínhthì dịch vụ kế toán, kiểm toán và dịch vụ thuế theo cam kết WTO cũng đã ở mức tựdo hóa rất cao, góp phần thúc đẩy phát triển thị trường, tăng cường minh bạchhóa quản trị doanh nghiệp và cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam. Các chuẩnmực kế toán kiểm toán của Việt Nam hiện nay đều được xây dựng trên cơ sở tiệm cậnvà phù hợp với các tiêu chuẩn kế toán kiểm toán quốc tế, các công ty kiểm toánhàng đầu thế giới như Big 4 và nhiều hãng kiểm toán nước ngoài đã có đại diện tạiViệt Nam.

Trong ASEAN, với mongmuốn xây dựng một Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau đa phương cho các dịch vụ kếtoán, kiểm toán để thúc đẩy việc trao đổi thông tin và chuyên môn, kinh nghiệmvà các thông lệ tốt nhất phù hợp với nhu cầu cụ thể của các nước thành viênASEAN và tạo thuận lợi cho việc di chuyển giữa các nước thành viên ASEAN củacác chuyên gia cung cấp các dịch vụ kế toán, kiểm toán; Thỏa thuận thừa nhận lẫnnhau về dịch vụ kế toán, kiểm toán trong ASEAN (MRA) đã được ký kết bên lề Hôịnghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (AEM) lần thứ 46 vào tháng 8/2014. Bộ Tài chính đangxây dựng kế hoạch triển khai như xây dựng biểu mẫu hồ sơ, quy trình thủ tục,báo cáo đánh giá tiêu chuẩn ứng viên, thiết lập Ủy ban giám sát…

Định hướng hội nhập tàichính trong bối cảnh mới

Năm 2016, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tiếp tục đóng vaitrò quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế và vị thế chính trị của Việt Namvới thế giới. Trong bối cảnh mốc tự do hóa cuối cùng của một số FTA đang đến gần,đồng thời chuẩn bị thực hiện cam kết trong các FTA mới, tiến trình hội nhậpkinh tế quốc tế của Việt Nam sẽ được triển khai mạnh mẽ, sâu rộng và toàn diện.Để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ tài chính ngân sách 2016 theo Nghị quyết củaQuốc hội và Chính phủ, công tác hội nhập và hợp tác tài chính của Bộ Tài chínhsẽ tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là, tiếp tục triển khai và theo dõi việc thực hiện cáccam kết về thuế nhập khẩu trong các FTA đã ký kết theo lộ trình đã ban hành.

Trong năm 2016, Bộ Tàichính sẽ tiếp tục triển khai các cam kết về thuế nhập khẩu theo các Thông tư đãban hành các Biểu FTA, theo dõi việc thực thi và tăng cường trao đổi, tiếp thúy kiến của doanh nghiệp. Năm 2016 cũng là mốc tự do hóa của một số các mặt hàngtrong một số khuôn khổ như: ATIGA (15 dòng thuế xăng dầu về 0% trong đó có dâùDiesel, thuế ô tô nguyên chiếc tiếp tục giảm xuống 40%); FTA ASEAN – Hàn Quốc(thêm 362 dòng thuế về 0%); FTA ASEAN – Australia – New Zealand (thêm 2.453dòng thuế về 0%); Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (thêm 6dòng thuế về 0%) và Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (thêm 312 dòng về 0%).

Hai là, xây dựng lộ trình cam kết về thuế nhập khẩu, thuếxuất khẩu; nghiên cứu cam kết trong các lĩnh vực của Bộ Tài chính trong TPP vaÈU để chuẩn bị sẵn sàng thực thi khi Hiệp định có hiệu lực.

Năm nay, Hiệp định TPPvà Việt Nam-EU được ký kết, mặc dù có thể chưa có hiệu lực ngay nhưng do đây làcác Hiệp định FTA thế hệ mới với mức độ tự do hóa cao và cam kết trên phạm vi rộng,nên Bộ Tài chính cần phối hợp với các bộ, ngành và địa phương để nghiên cứu, ràsoát hệ thống chính sách trong nước, từ đó đề xuất sửa đổi nhằm phù hợp với camkết của Việt Nam trong các Hiệp định.

Ba là, tiếp tục xây dựng phương án và tham gia đàm pháncác lĩnh vực thuế nhập khẩu, dịch vụ tài chính và dịch vụ khác trong các FTA đangvà sẽ đàm phán.

Bộ Tài chính tiếp tụcphát huy tinh thần chủ động trong đàm phán để xây dựng bước đi phù hợp, cân bằnglợi ích của Việt Nam và đối tác của Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực(RCEP), Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (EFTA), ASEAN - Hồng Kông. Hiện nay, mộtsố FTA song phương như FTA Việt Nam - Israelvà Việt Nam - Cuba đang chuẩn bị khởi động đàm phán. Vì vậy, Bộ Tàichính cũng chuẩn bị nguồn lực và chủ động tham vấn với các bộ, ngành, hiệp hôịvà địa phương để tích cực tham gia đàm phán trong các lĩnh vực thuộc phạm vi phụtrách, góp phần mở rộng thêm bức tranh hội nhập của Việt Nam.

Bốn là, theo dõi và đánh giá tác động hội nhập để kịp thơìkiến nghị điều chỉnh chính sách.

Trong bối cảnh Việt Namđã và chuẩn bị ký FTA với hầu hết các đối tác thương mại lớn trên thế giới, ràocản về thuế quan đối với hàng nhập khẩu từ các nước sẽ dần dần được xóa bỏ, mốctự do hóa cuối cùng của một số FTA đang đến gần (ATIGA 2018, FTA ASEAN – TrungQuốc 2020, FTA ASEAN – Hàn Quốc 2021). Vì vậy, Bộ Tài chính sẽ tập trung nguồnlực để tiếp tục theo dõi, nghiên cứu và đánh giá tác động của việc thực hiệncác cam kết cắt giảm thuế trong các FTA đến thu ngân sách, tình hình sản xuấtkinh doanh trong nước và tác động đến một số ngành hàng quan trọng, từ đó kịpthời kiến nghị điều chỉnh các chính sách liên quan.

Năm là, tăng cường công tác đối thoại chính sách, hỗ trợcác ngành sản xuất trong nước tận dụng các cơ hội và hạn chế tác động tiêu cựctừ các thách thức, do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại.

Bộ Tài chính Việt Nam sẽtăng cường đối thoại chính sách về tài chính với các đối tác phát triển/các tổchức quốc tế nhằm minh bạch thông tin, tạo sự đồng thuận của các nhà tài trợ đôívới các chính sách phát triển của ngành Tài chính và của quốc gia, thu hút sựtham gia hỗ trợ của các nhà tài trợ;

Đa dạng hóa các hình thứctuyên truyền, chủ động cung cấp thông tin thường xuyên về cam kết của Việt Namtrong các FTA để nâng cao nhận thức trong cộng đồng doanh nghiệp và xã hội, nhấtlà những cơ hội và lợi ích trong các Hiệp định, các điều kiện để hàng hóa ViệtNam được hưởng ưu đãi về thuế quan, các cải cách về thủ tục hải quan đối vơíhàng hóa xuất nhập khẩu…

TS. VŨ NHỮ THĂNG - Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Tài chính)

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính tháng 1/2016

Nguồn Tài Chính: http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-luan/hoat-dong-hoi-nhap-tai-chinh-nam-2015-va-nhung-chuan-bi-cho-giai-doan-tiep-theo-76157.html