6 Bài phân tích tác phẩm Tương tư của Nguyễn Bính hay nhất - Ngữ văn 11

Bài văn mẫu lớp 11: Phân tích tác phẩm Tương tư của Nguyễn Bính bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn ngữ văn 11.

Mục lục

I. Tìm hiểu chung về Tương tư - Nguyễn Bính
1. Tác giả Nguyễn Bính
a. Tiểu sử
b. Sự nghiệp văn học
2. Tác phẩm Tương tư
a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
b. Ý nghĩa nhan đề
c. Thể thơ và phương thức biểu đạt
d. Bố cục
e. Giá trị nội dung
g. Giá trị nghệ thuật
II. Dàn ý chung phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
A. Mở bài
B. Thân bài
C. Kết bài
III. Viết đoạn văn ngắn phân tích bài Tương tư của Nguyễn Bính
IV. Danh sách đề thi phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
1. Phân tích Tương tư của Nguyễn Bính
2. Bình giảng 4 câu cuối bài thơ Tương tư của thi sĩ Nguyễn Bính
3. Hãy nêu cảm nhận về bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
4. Diễn biến tâm trạng của chàng trai qua bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính
5. Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính chân thật và mộc mạc như tình yêu của người bình dân trong ca dao. Hãy phân tích bài thơ Tương tư của ông để làm sáng tỏ điều đó.
6. Tương tư - một trạng thái tâm hồn vừa phổ quát vừa riêng biệt; một cái tôi thơ mới mang đậm chất thôn quê và chất dân gian

I. Tìm hiểu chung về Tương tư - Nguyễn Bính

1. Tác giả Nguyễn Bính

a. Tiểu sử

- Nguyễn Bính (1918 – 1966), tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính.

- Quê quán: Làng Thiện Vịnh, xã Đồng Đội, Vụ Bản, Nam Định.

- Gia đình: nhà Nho nghèo, mồ côi cha mẹ sớm.

- 1945 - 1954: tham gia kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ.

- 1954 tập kết ra Bắc, tham gia công tác văn nghệ và làm báo.

- Mất đột ngột 20/01/1966.

- Nguyễn Bính là một người thông minh, nhạy cảm với thời đại đầy biến động, luôn muốn bảo tồn và duy trì những giá trị truyền thống của dân tộc.

b. Sự nghiệp văn học

- Ông làm thơ từ rất sớm (năm 13 tuổi), sáng tác nhiều thể loại (thơ, truyện thơ, chèo...).

- Các tác phẩm chính: Tâm hồn tôi (1937), Lỡ bước sang ngang (1940), Mười hai bến nước (1942), Truyện thơ Cây đàn Tỳ bà (1944), Gửi người vợ miền Nam (1955)...

- Phong cách thơ của Nguyễn Bính mang đậm chất quê:

+ Nội dung: Nhà thơ nhạy cảm với thời đại đầy biến động, đặc biệt là sự xáo trộn của văn chương, ông thể hiện sâu sắc nỗi day dứt không yên của tâm hồn thiết tha với những giá trị cổ truyền đang có nguy cơ bị mai một. Gắn bó, thấu hiểu con người thôn quê Việt Nam. Dù viết về hình ảnh, cảnh sắc, con người nào thì tất cả đều thắm đượm một tình quê, duyên quê, hồn quê....

+ Hình thức: Hình ảnh thơ bình dị (cây đa, bến nước,...), thể thơ dân tộc lục bát, ngôn ngữ sử dụng yếu tố của ca dao dân ca,...

2. Tác phẩm Tương tư

a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

- Được rút trong tập Lỡ bước sang ngang(1940).

- Viết tại làng Hoàng Mai (quận Hoàng Mai, Hà Nội) năm 1939.

b. Ý nghĩa nhan đề

- Tương tư: nỗi nhớ nhau của tình yêu đôi lứa, là hiện thân của tình yêu (một tâm hồn đang nhớ và một trái tim đang yêu).

- Khoảng cách về không gian, thời gian chính là cái cớ để tương tư Tương tư là khao khát, là nỗ lực vượt không gian và chiến thắng thời gian để được gần kề.

Dạng thức đa dạng, phức tạp nhất nhưng cũng sống động nhất của tình yêu.

c. Thể thơ và phương thức biểu đạt

- Thể thơ: Lục bát

- Phương thức biểu đạt: Biểu cảm

d. Bố cục

- Phần 1 (4 câu đầu): Khái quát nỗi lòng tương tư.

- Phần 2 (12 câu tiếp): Những trạng thái của tương tư.

- Phần 3 (4 câu cuối): Ước vọng tình yêu xa xôi.

e. Giá trị nội dung

- Bài thơ là tiếng lòng về một tình yêu trong sáng, đơn phương, mạnh mẽ.

- Thế hiện tình cảm chân thành, thấm đượm hồn quê Việt với nhiều nét đẹp văn hóa dân gian.

g. Giá trị nghệ thuật

- Thể thơ lục bát: đậm đà tính dân tộc, mang tính chất biểu cảm nổng nàn.

- Ngôn ngữ: dung dị, hồn nhiên, dân dã nhưng vẫn đậm chất lạng mạn, thơ mộng.

- Hệ thống ẩn dụ, hoán dụ đặc sắc và sáng tạo.

- Hình ảnh sóng đôi: trầu - cau, bến - đò, hoa - bướm, thôn Đoài - thôn Đông; quan niệm về tình yêu gắn bó, thủy chung...

- Thi liệu dân gian: Bài thơ mang vẻ đẹp chân quê, tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính.

II. Dàn ý chung phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính

A. Mở bài

Trong các nhà Thơ mới, Nguyễn Bính được xem là nhà thơ thành công trong mảng thơ dân dã. Bài thơ dân dã nào của ông cũng dậy lên được hồn quê. Hồn quê ấy là sự hòa điệu của nhiều yếu tố thuộc cả nội dung và hình thức, nhưng nổi bật vẫn là sự hòa quyện giữa giọng điệu quê với lối nói quê và lời quê, đặc biệt là qua bài thơ Tương tư.

B. Thân bài

a. Luận điểm 1: Chàng trai bày tỏ nỗi tương tư của mình

* Khái quát nỗi lòng nhớ mong, tương tư

- Tương tư là nỗi nhớ nhau của tình yêu đôi lứa.

+ Trên thực tế, từ “tương tư” thường dùng diễn tả nỗi nhớ đơn phương.

+ Tương tư là tâm trạng nảy sinh khi có sự xa cách về không gian và cả về thời gian (cũng có nhưng khi chưa có xa cách thực, vẫn nảy sinh tương tư).

+ Ngọn nguồn của nỗi tương tư là khao khát được gần kề, được chung tình.

- Tâm lí tương tư thường có hai mặt trái ngược và biện chứng với nhau.

+ Một mặt, khoảng cách thực được nhân lên gấp bội, trở nên xa diệu vợi hơn sự thực.

+ Mặt khác, nhớ thương chính là một nỗ lực để vượt lên khoảng cách, giăng qua thời gian và không gian như một nhịp cầu vượt qua mọi xa cách.

+ Tâm lí tương tư cũng phức tạp: không chỉ có nhớ nhung, thương cảm, mà còn đầy những ước ao và có cả giận hờn, trách móc.

-> Vì vậy khi giãi bày nỗi tương tư, không chỉ có những lời bộc bạch xuôi chiều, còn có cả những lời dỗi hờn bóng gió, thậm chí những lối nói mát mẻ, vòng vo, lấp lửng. Nhưng do xuất phát từ nỗi nhớ thương và khao khát dành cho nhau nên tất cả những lời ấy đều dễ thương, dễ nghe.

=> Như vậy, tương tư chính là dạng thức sống động nhất của tình yêu, không chỉ biểu hiện nỗi nhớ nhung đơn thuần mà còn là một phức hợp cảm xúc đa dạng với những diễn biến không hề xuôi chiều.

- Nỗi tương tư diễn biến qua những sắc thái cảm xúc chính đan xen và chuyển hóa nhau rất tự nhiên, chân thực:

+ Nhớ nhung: câu 1 - câu 4.

+ Băn khoăn hờn dỗi: câu 5, câu 6

+ Than thở: câu 7, câu 8

+ Hờn trách mát mẻ: câu 9 - câu 14.

+ Nôn nao mơ tưởng: câu 15, câu 16.

+ Ước vọng xa xôi: câu 17 - câu 20.

* Lời trách móc, bộc bạch của chàng trai

- Trong bài thơ, chàng trai có ý trách cô gái.

+ Bề ngoài, điều này là vô lí. Trong tình yêu, người chủ động phải là anh con trai, đằng này anh lại trong vai thụ động ngồi đợi chờ. Đã thụ động đợi chờ mà còn trách móc.

+ Nhưng bên trong lại không vô lí. Tác giả tạo ra một tình huống trữ tình để bày tỏ nỗi niềm. Đặt chàng trai vào vai thụ động chờ đợi mới có thể bộc bạch được tâm trạng tương tư. Hơn nữa, chàng trai hờn trách vì yêu. Do nỗi nhớ dày vò, người trong cuộc dễ tưởng mình bị hờ hững, nên sinh ra “hờn ngược trách xuôi”. Nói khác đi, trách chỉ là một cách bộc bạch tình yêu, cũng gọi là “trách yêu”.

+ Nỗi tương tư của chàng trai và qua đó là mối nhân duyên của đôi trai gái càng đậm nét chân quê hơn vì gắn liền với cảnh vật chốn quê: thôn làng, Đoài - Đông, đò giang, đầu đình, bến đò, hoa bướm, giàn giầu, hàng cau… Tất cả tạo ra không gian quê kiểng cho nhân vật trữ tình bày tỏ mối tương tư, vừa là phương tiện vừa là ngôn ngữ để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị. Và như thế, tình và cảnh sẽ quyện vào nhau.

Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính

b. Luận điểm 2: Khao khát hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn

"Nhà em có một giàn giầu

Nhà anh có một hang cau liên phòng

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,

Cau thôn Đoài ngồi nhớ trầu không thôn nào?"

- Tác giả mượn hình ảnh quen thuộc, mộc mạc “cau”, “giầu” để diễn tả tình yêu. Trầu cau để bắt đầu tình yêu đã đẹp, trầu cau để bắt đầu một cuộc sống gia đình, một đám cưới còn đẹp hơn. Có trầu thì phải có cau, màu trầu cau thì hai ta đã sẵn.

- Thay đổi cách xưng hô “tôi - em” thành “anh - em”

=> Sự mạnh dạn chuyển đổi cách xưng hô, cách gọi thân mật. Dấu hiệu này chứng tỏ mối tình đã quá lớn, đã quá sâu và chàng trai muốn giãi bày trực tiếp với cô gái.

c. Đánh giá đặc sắc nghệ thuật

- Thể thơ lục bát vừa hiện đại vừa phảng phất ca dao với giọng điệu, cách ví von, cách lựa chọn và tổ chức lời thơ, cách đưa khẩu ngữ nhuần nhuyễn vào thơ.

- Tạo hình ảnh độc đáo: hình ảnh chàng trai thôn Đoài ngồi nhớ cô gái thôn Đông

- Dùng chất liệu ngôn từ chân quê, dân gian: địa danh thôn Đoài, thôn Đông, thành ngữ Chín nhớ mười mong, số từ “một”, “chín”, “mười”, “một”.

- Cách tổ chức lời thơ độc đáo đã đẩy đối tượng về hai đầu câu thơ tạo khoảng cách xa: Thôn Đoài… thôn Đông, Một người… một người. Nhất là câu sau, hai đối tượng ở hai đầu xa cách, giữa họ là nhịp cầu chín nhớ mười mong.

C. Kết bài

- Tổng kết giá trị nội dung và nghệ thuật bài Tương tư:

+ Nội dung: Bài thơ thể hiện tâm trạng tương tư của một chàng trai quê với những diễn biến chân thực mà tinh tế, trong đó mối duyên quê và cảnh quê hòa quyện với nhau thật nhuần nhị.

+ Nghệ thuật: Tương tư ghi đậm phong cách thơ Nguyễn Bính với thể lục bát tích hợp và phát huy một cách xuất sắc những truyền thống dân gian trong sáng tạo Thơ mới.

III. Viết đoạn văn ngắn phân tích bài Tương tư của Nguyễn Bính

Bình giảng 4 câu thơ cuối bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính

Tuơng tư viết năm 1939 in trong tập Lỡ bước sang ngang (1940). Tương tư: Nghĩa đen của chữ là nhớ nhau. Nghĩa “Tương tư'’ bài thơ này là nỗi nhớ của tình yêu đôi lứa. Nhà thơ đã thể hiện nỗi nhớ này qua mọi cung bậc của nó.

Nhìn trong mạch cảm xúc của bài thơ, đoạn cuối này là mối kết tụ nỗi niềm - tương tư, đồng thời mở ra chân trời hi vọng hạnh phúc tình yêu.

Đoạn thơ được nói bằng giọng thầm thì ngọt ngào, gần gũi yêu thương (có thể so sánh với giọng thơ trong các đoạn trước để thấy chuyển đổi giọng thơ). Giọng trống không, xa cách, hờn dỗi trách móc không còn, cũng không còn những khắc khoải, day dứt.

Cách xưng hô “tôi” - “nàng” đến “tôi” - “em” gần gũi hơn, thân mật hơn.

Giọng khẳng định, khẳng định một sự thực hiển nhiên: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông” dẫn tới một khẳng định khác trong hi vọng “Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”.

Hình ảnh sóng đôi “giầu cau” là một chất liệu văn học dân gian được sử dụng cuối cùng trong bài để khẳng định tình yêu bền vững (sau khi đã sử dụng nhiều yếu tố khác). Điệp ngữ “nhà... có một” mang kết cấu song song, cũng biểu thị ý khẳng định, sự sóng đôi tồn tại.

"Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”: Cấu trúc bỏ lửng, nói thực ra để khẳng định, khẳng định tế nhị, vì hình ảnh trầu cau là một ẩn dụ của chuyện hôn nhân hạnh phúc lứa đôi, là khao khát hạnh phúc hài hòa.

Đoạn kết bài thơ được thể hiện tinh tế, khéo léo, nhớ “giầu cau", nhớ “Đông, Đoài” mà tình yêu liên tưởng.

Kết một cách độc đáo nhưng phù hợp lôgic cảm xúc tâm trạng của cả bài: khép lại một nỗi niềm, giải được bệnh “tương tư” và mở ra niềm khát khao hi vọng hạnh phúc nhân duyên.

Đoạn thơ đậm màu sắc nghệ thuật trữ tình dân gian (thể lục bát, hình ảnh “giầu cau”, "Đông Đoài”, cách ví von ẩn dụ... nó nhất quán với việc dùng các yếu tố chất liệu dân gian trong toàn bài, tạo được chất giọng tình yêu chân quê đằm thắm, bền vững, vốn là đặc trưng nổi bật của thơ Nguyễn Bính.

IV. Danh sách đề thi phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính

1. Phân tích Tương tư của Nguyễn Bính

Nguyễn Bính (1918 -1966) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính (có thời kì lấy tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở làng Thiện Vịnh xã Đông Hội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Nguyễn Bính xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, sớm mồ côi mẹ, năm 10 tuổi phải theo anh lên Hà Nội kiếm sống. Nguyễn Bính làm thơ khi mới 13 tuổi và sớm thể hiện tài năng sáng tác của mình. Năm 1943, ông vào Nam Bộ rồi ở lại tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1954 ông tập kết ra Bắc và tiếp tục tham gia công tác báo chí văn nghệ.

Trong khi phần lớn các thi sĩ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây thì Nguyễn Bính lại tìm về với hồn thơ dân tộc và hấp dẫn người đọc bằng chính hồn thơ này. Bằng lối ví von mộc mạc mà duyên dáng mang phong vị dân gian, thơ Nguyễn Bính đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương của quê hương, đất nước và tình người đằm thắm, thiết tha. Vì thế. Nguyễn Bính được coi là thi sĩ đồng quê và có nhiều tác phẩm được truyền tụng rộng khắp.

Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Bính trước Cách mạng: Tâm hồn tôi (1937), Lỡ bước sang ngang (1940), Hương cố nhân (1941) Mười hai bến nước (1942), Cây đàn tì bà (truyện thơ -1944); sau cách mạng có: Ông lão mài gươm (1847), Gửi người vợ miền Nam (1955), Tiếng trống đêm xuân (truyện thơ - 1958). Đêm sao sáng (1962), Cô Son (chèo -1961), Người lái đò sông Vị (chèo - 1962)...

Bài thơ Tương tư được in trong tập thơ Lỡ bước sang ngang. Bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ chân quê của Nguyễn Bính.

Tâm trạng của người con trai trong bài thơ

Bản chất tâm lí của tâm trạng tương tư không chỉ có nhớ nhung đơn thuần mà là một phức hợp cảm xúc khác nhau, với những diễn biến không xuôi chiều

Tâm trạng tương tư trong bài thơ diễn biến qua nhiều sắc thái cảm xúc chính như sau;

Nhớ nhung:

"Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người

Gió mưa là bệnh của giời

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng

Băn khoăn, dỗi hơn

Hai thôn chung lại một làng

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?

Than thơ:

"Ngày qua ngày lại qua ngày

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá càng"

Hờn trách:

"Bảo rằng cách trở đò ngang

Không sang là chẳng đường sang đã đành

Nhưng đây cách một đầu đình

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi

Tương tư thức mấy đêm rồi

Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?"

Nôn nao, mơ tưởng:

"Bao giờ biển mới gặp đò?

Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau"

Uớc vọng xa xôi:

"Nhà em có một giàn trầu

Nhà anh có một hàng cau liên phòng

Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông

Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?"

Sự phức tạp mang tính quy luật trong tâm lí khi yêu

Sự bày tỏ tình cảm của người con trai trong bài thơ có điều gì bất hợp lí. Trong tình yêu, người chủ động đi đến phải là anh con trai, đằng này anh lại trong vai thụ động, ngồi chờ tình yêu. Đã thể hiện sự thụ động lại còn hờn dỗi, trách móc. Đó là cái bất hợp lí bên ngoài.

Tuy nhiên, trong cái bất hợp lí đó lại thể hiện, cái lí của nó. Đó là cái lí về chiều sâu.

Thứ nhất, đây là một bài thơ, tác giả đã tạo ra một tình huống trữ tình để bày tỏ nỗi niềm, chứ không câu nệ vào lẽ khách quan. Thi sĩ phải đặt chàng trai vào thế thụ động mới có thể bộc bạch được tâm trạng tương tư của một người con trai quê mùa, chất phác.

Thứ hai, lối trách này không phải vì ghét, không giống sự qui kết trách nhiệ̣m, đổ lỗi thông thường, mà trách vì yêu. Do quá mong nhớ, bị nỗi nhớ giày vò, người trong cuộc dễ tưởng mình bị hững hờ, nên sinh ra trách hờn, không có hàm ý ghét bỏ. Nói cách khác, trách chỉ là một cách để bộc bạch tình yêu.

Cách biểu hiện thời gian của tác giả

Tâm trạng chờ đợi sốt ruột và mòn mỏi không tách rời với việc diễn ra thời gian. Nổi bật lên là việc dùng cách ngắt nhịp, phép lặp, giọng kể lể và việc tả ngụ tình, dùng sự biến đổi của không gian để biểu hiện thời gian.

Câu lục: Ngày qua ngày lại qua ngày

Nhịp 2/2/2 thông thường của câu lục trong lục bát truyền thông đã được ngắt thành 3/3: Ngày qua ngày lại qua ngày. Ý và lời vế sau lặp lại vế trước. Cách ngắt này khiến chữ lại ở đầu nhịp sau trở thành điểm nhấn của ngữ điệu. Nó gợi được dòng thời gian cứ trôi qua hết sức chậm chạp, ngày mới lập lại ngày cũ một cách chán ngán vô vọng. Cả việc ngắt nhịp, lặp vế câu và nốt nhấn giọng ở chữ lại khiến cho giọng thơ vang lên như một lời than thở kể lể ngán ngẩm. Tất cả những điều đó đã làm hiện lên hình ảnh một người con trai với tâm trạng nóng lòng chờ trông đến mỏi mòn.

Câu bát: Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng

Câu thơ diễn tả thời gian và tâm trạng thật tinh tế và ý nhị. Thời gian diễn ra ở câu trên đã chậm chạp nhưng mới thể hiện qua lời kể. Đến câu sau, thời gian mới hiện lên sinh động. Thời gian có màu. đúng hơn, thời gian thể hiện qua việc chuyển màu: lá xanh chuyển thành lá vàng. Ngày anh bắt đầu chờ đợi, lá hãy còn xanh, đến nay lá đã chuyển sang vàng rồi, thế mà vô vọng hoàn vô vọng. Thời gian và tâm trạng dường như không tìm một điểm chung với nhau; thời gian càng chậm tâm trạng càng nặng nề; tâm trạng càng nôn nóng, thời gian càng chậm chạp, lê thê. Tinh tế nhất trong cách diễn tả có lẽ là chữ nhuộm. Chữ nhuộm diễn tả thời gian chậm chạp. Có thể so sánh chữ nhuốm trong hai câu thơ sau của Nguyễn Du:

"Người lên ngựa kẻ chia bào

Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san"

Nhuốm nói đến sự biến đổi sắc màu mới diễn ra, đang diễn ra, còn chưa hoàn tất. Sắc màu sự vật biến đổi chủ yếu ở bề mặt, bề ngoài. Còn nhuộm thể hiện sự hoàn tất. Thời gian dài đến mức đủ để cho màu này chuyển hẳn sang màu khác. Ngoài ra chữ nhuộm còn để ngỏ chủ thể. Nhuộm nhưng ai nhuộm? không hẳn là thời gian, cũng không phải là sự chuyển màu của lá: đó chính là nỗi tương tư. Tương tư đã khiến lòng người héo hon, đã nhuốm thành héo úa. Kẻ tương tư và cây lá có mối tương giao thật kì lạ. Cây vừa là nhân chứng của mối tương tư, là đồng minh của kẻ tương tư, là nạn nhân của kẻ tương tư, hay chính là hiện thân của nỗi tương tư. Có thể xem cái cây kia cũng là cây tương tư được. Đó chính là cái tinh tế, ý nhị trong lối thể hiện của Nguyễn Bính.

Khung cảnh chốn quê trong bài thơ

Nỗi tương tư của chàng trai và qua đó là mối nhân duyên của đôi trai gái này càng đậm nét chân quê hơn vì nó gắn liền với khung cành cây và chốn quê.

Những chi tiết trong bài thơ về địa danh, cảnh vật, cây cỏ... thuộc về chốn quê bao đời như thôn làng Đoài, Đông, đò giang, đầu đình, bến đò, hoa bướm, giàn giầu, hàng cau...

Những chi tiết này vừa tạo ra không gian quê để nhân vật trữ tình tạo ra mối tương tư, vừa là phương tiện, thậm chí là ngôn ngữ để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị. Có như thế, tình và cảnh mới có thể hòa quyện vào nhau được.

Cách tạo hình độc đáo, hình ảnh chàng trai thôn Đoài ngồi nhớ cô gái thôn Đông đã khiến cho thi sĩ mở rộng ra, khái quát thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông. Đây không chỉ đơn thuần là cách nói vòng mà quan trọng hơn, nó tạo ra hai nỗi nhớ song hành và chuyển hóa, gắn với hai chủ thể và hai đối tượng: người nhớ người và thôn nhớ thôn. Chính vì người nhớ người mà có thôn nhớ thôn. Nó tạo ra cơ sở cho thủ pháp nhân hóa: Thôn Đoài ngồi nhớ... Nhưng sâu xa hơn, cách diễn đạt đó còn diễn tả một quy luật tâm lí. Khi tương tư thì cả không gian bao quanh chủ thể cũng như nhuốm nỗi tương tư ấy, vì thế trong bải thơ có hai miền không gian nhớ nhau. Tràn đầy cả bầu không gian tạo ra bởi hai thôn ấy là một nỗi nhớ nhung.

Nghệ thuật dùng chất liệu ngôn từ chân quê, dân gian: địa danh thôn Đoài, thôn Đông cùng thành ngữ chín nhớ mười mong; dùng số từ một, chín, mười. cách tổ chức lời thơ độc đáo: đẩy đối tượng về hai đầu câu thơ, tạo ra khoảng cách (Thôn Đoài... thôn Đông, Một người.... một người). Lối sử dụng ngôn ngữ gợi được hương vị chân quê và thể hiện được giọng điệu kể lể, rất phù hợp với việc bộc bạch nỗi tương tư.

Top 5 bài phân tích Chiếu dời đô – Lý Công Uẩn đạt điểm cao - Văn mẫu lớp 8

9 bài phân tích bài thơ Quê hương - Tế Hanh hay nhất - Văn mẫu lớp 8

2. Bình giảng 4 câu cuối bài thơ Tương tư của thi sĩ Nguyễn Bính

Đó là thơ Nguyễn Bính. Nhà thơ tự học mà thành tài. Hoài Thanh, trong “Thi nhân Việt Nam” cho biết, Nguyễn Bính vào tuổi 20 đã làm gần một ngàn bài thơ. Nguyễn Bính sử dụng nhiều loại thơ, điệu thơ, nhưng thành công nhất là thơ lục bát ở những bài thơ ấy, “ta bỗng thấy vườn cau bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta”, ta cảm thấy một điều đáng quý báu vô ngần, đó là “hồn xưa của đất nước”.

Những bài thơ tình của Nguyễn Bính có một giọng điệu riêng, đẹp như ca dao, mang tính cách ca dao... Nhiều câu thơ đoạn thơ cứ thấm vào hồn ta mãi:

"Nhà em có một giàn bầu

Nhà anh có một hàng cau liên phòng

Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông

Cau thôn Đoài, nhớ giầu không thôn nào?"

Đoạn thơ trên đây trích trong bài thơ “Tương tư”, rút trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang’’ (1940) của thi sĩ Nguyễn Bính. Bài thơ gồm 20 câu lục bát; 16 câu đầu nói về nỗi buồn nhớ tương tư, trách móc tủi hờn: “Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?”... Bốn câu cuối nói lên niềm mong ước của chàng trai đa tình về một tình yêu hạnh phúc với một thiếu nữ khác thôn chung làng.

Cấu trúc song hành đối xứng, bốn câu thơ liên kết thành hai cặp, gắn bó với nhau rất hồn nhiên, tự nhiên như duyên trời đã định giữa nhà em và nhà tôi, giữa em và anh. giữa thôn Đoài với thôn Đông, giữa cau với giầu vậy. Giọng thơ thì thầm ngọt ngào như một lời cầu mong, ao ước khao khát. Từ chỗ gọi "nàng”: “Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” đã chuyển thành tiếng “em” gần gũi, thân thiết yêu thương: “Nhà em có một giàn giầu ...” Cách xưng hô từ “tôi” - “nàng” dần đến “em” - “anh” thân thiết hơn, phong tình và yêu thương hơn.

Giầu (trầu) với cau đã cố kết bền đẹp từ ngàn xưa, nên bây giờ mới có sự tương giao tương hợp như một thiên duyên đẹp kì lạ:

"Nhà em có một giàn bầu

Nhà anh có một hàng cau liên phòng?"

Điệp ngữ “nhà ... có một” làm cho ý thơ vang lên khẳng định về một sự sóng đôi tồn tại. Tuy rằng “hai thôn chung lại một làng” chẳng xa xôi mấy, nhưng “giàn giầu” nhà em và “hàng cau liên phòng” của nhà anh vẫn còn ở về hai phía không gian. Nhà em và” hàng cau liên phòng” của nhà anh vẫn còn ở về hai phía không gian. Nhà em và nhà anh mới chỉ“ có một” chưa chưa có đôi. Chữ một trong 2 câu thơ rất ý vị, nó đã nói lên ước mong về hạnh phúc lứa đôi: duyên giầu - cau cũng là duyên lứa đôi bền chặt, sắt son, thủy chung.

Trong bài “Tương tư”, Nguyễn Bính sử dụng nhiều câu hỏi tu từ để diễn tả nỗi buồn tương tư “gỡ mãi chẳng ra”

"Có sao bên ấy chẳng sang bên này?

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi

Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?

Bao giờ mới mới gặp đò?"

Và khép lại bài thơ, chàng trai tự hỏi mình trong mơ ước và hi vọng:

"Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông

Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?"

Cả một thời thương nhớ, đâu chỉ tôi nhớ nàng, anh nhớ em, mà còn có “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông”. Cảnh vật cũng dan díu nhớ mong: “Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?” Một lối nói bỏ lửng, rất tế nhị, duyên dáng, đậm đà. Anh tự hỏi mình, và cùng thổ lộ cùng em. Câu hỏi tu từ với cấu trúc bỏ lửng đã thể hiện một tình yêu chân thành về một mơ ước hạnh phúc tốt đẹp. Ước mơ ấy thật nhân văn.

Đoạn thơ cho thấy vẻ đẹp riêng trong thơ tình của Nguyễn Bính. Tác giá vận dụng sáng tạo chất liệu văn học dân gian như giầu - cau, thôn Đoài - thôn Đông, câu thơ lục bát giàu vần điệu nhạc điệu để nói lên nỗi khao khát tình yêu hạnh phúc của lứa đôi. Một tình yêu đằm thắm, chân quê. “Tương tư” thấm vào nỗi buồn, nhưng đoạn kết đã mở ra một chân trời hi vọng.

3. Hãy nêu cảm nhận về bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính

Bài Tương tư nằm trong một thi tứ bao trùm Thơ mới: tình yêu nam nữ - thứ tình yêu hiện đại trăm hình muôn trạng của văn học lãng mạn giai đoạn 1930 — 1945... cái tình say đắm, cái tình thoảng qua; cái tình gần gũi, cái tình xa xôi..., cái tình trong giây phút, cái tình thiên thu.

Con người lãng mạn trong bài thơ Tương tư đã thao thức chín nhớ mười mong người thương ròng rã suốt mấy đêm rồi, mong nhớ hết ngày này đến ngày khác, thậm chí hết tháng này qua tháng khác: Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng... Theo đạo lí quân tử tu, tề, trị, bình Nho gia, nhất là Tống Nho, thì kẻ nam nhi như thế là hỏng quá... Nhưng sức cuốn hút của thơ tình Nguyễn Bính trong bài Tương tư chủ yếu không phải do thái độ thành thực giãi bày nỗi niềm chín nhở mười mong nay do sự cải lí cho tính phù hợp quy luật của tình yêu nam nữ, đặng biện hộ cho đạo lí nhân văn (không ít nhà thơ lãng mạn đương thời bộc lộ tình cảm yêu thương nhiều khi còn đắm đuối hơn (Ao ước - Tế Hanh), tinh tế hơn (Ngậm ngùi - Huy Cận) hoặc não lòng hơn: Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ - Lạc giữa niềm êm chẳng bến bà - Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá - Hai người nhưng chẳng bơ va (Trăng - Xuân Diệu); mà sức cuốn hút chủ yếu là bởi những rung động của trái tim thi sĩ (thể hiện trong cấu tứ cũng như ở ngữ điệu - giọng) dung hợp rất nhuần nhuyễn tính cách dân tộc.

Chúng ta đều rõ: Linh hồn của một dân tộc thể hiện tập trung ở các hình thái folklore. Trong folklore Việt Nam có khu vực đặc biệt phát triển: thơ ca dân gian không chỉ do số lượng, mà còn ở chất lượng, ca dao dân ca là một tổng kho văn hóa chứa đựng trí tuệ, tâm linh, thần thái Việt... và trong kho tàng tinh thần đó, xuất hiện biết bao vần thơ tình yêu đặc sắc không thua kém bất cứ một khúc tình ca nào trên thế gian. Nhà thơ Nguyễn Bính chính là một chú bướm (Con bướm vàng tuyển đậu Thám hoa - Truyện cổ tích) đã xâm nhập rồi lượn bay trên một cùng văn hóa dân gian đặc biệt của dân tộc: ca dao dân ca, và đã hấp thụ được một lượng hương nhụy đáng kể... Trong thơ mới, tất nhiên không phải chỉ riêng Nguyễn Bính, mà một số thi sĩ khác cũng đã quy tụ gần xa chung quanh vùng văn hóa cội nguồn dân tộc này - như tác giả Thi nhân Việt Nam từng nhận xét: Chưa bao giờ như bây giờ họ thấy cần phải tìm về dĩ vãng để vịn vào những gì bất diệt đủ đảm bảo cho ngày mai. Tình hình ấy cũng hoàn toàn phù hợp với một quy luật hình thành văn học lãng mạn thế giới; ví dụ không ít những cây bút lãng mạn châu Âu thế kỉ XIX cũng đã quay về với dân tộc, văn hóa dân gian, quan tâm sưu tầm các sáng tác dân gian theo quan niệm: cần hợp hồn giữa thời xưa và thời nay (Mickiêvich) vì có khi: phải tìm đến dân ca mới thấy được thơ chân chính.

Một trong những nét đặc trưng của tính cách Việt là ý thức về độ (không vượt ngưỡng). Ý thức về độ ấy đã chi phối nhiều khu vực văn hóa dân gian Việt: về kiến trúc, các công trình xây dựng không quá lớn, về sân khấu tuồng, bi mà vẫn tráng, chèo khi đau buồn phải có hề xua tan ngay không khí thảm sầu, về tín ngưỡng, lễ hội, nghiêm trang mà không khe khắt, về ứng nhân xử thế, ít muôn cạn tàu ráo máng... Ý thức về độ của tính cách Việt do các nguyên nhận lịch sử, đại lí lâu đời quyết định... Đồng hành trong hệ thông văn hóa ấy, tình yêu nam nữ trong ca dao dân ca tuy đắm đuối thiết tha mà không mấy bi lụy - cái thi tứ rũ liệt đến muốn tự diệt vì tình tuyệt vọng hầu như không xuất hiện trong thơ ca dân gian. Vả chăng, người bình dân (gồm cả lao động và trí thức) chủ nhân văn hóa dân gian, trong cuộc sống lúc đang lúc đang yêu thì thường cũng là khi đang có nhiều trách nhiệm lớn nhỏ ràng buộc - đối với gia đình chẳng hạn. Hãy nghe lời van vĩ dễ thương của một thôn nữ tội nghiệp xưa:

"Chàng ơi buông áo em ra

Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa

Chợ trưa rau nó héo đi

Lấy gì nuôi mẹ, lấy gì nuôi em."

Chúng ta tin chắc rằng dẫu thiếu nữ ấy có trong tình huống:

" Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt trên vai

Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt

Mắt thương nhớ ai

Mà mắt không khô."

Đi nữa, thì cô cũng khó tùy tiện ngã bệnh hoặc liều thân, bởi vì ai sẽ thay cô tần tảo nuôi mẹ, nuôi em? Do đó, sầu tương tư, tình tuyệt vọng.. trong ca dao dân ca xưa chỉ đưa chàng đến mức nuối tiếc:

"Tiếc công anh đắp đập be bờ

Để ai quăng đó, đem lờ đến đơm

Đêm qua vật đổi sao dời

Tiếc công gắn bó, tiếc lời giao đoan,..."

Hoặc dẫn nàng đến độ ngẩn ngơ:

"Ngày ngày em đừng em trông

Trôn non non ngất, trông sông sông dài"

Quá nữa là:

"Nhớ ai em những khóc thầm

Hai dòng nước mắt dầm dầm như mưa"

Và trạng thái thông thường của họ là:

Đêm qua ra đứng bờ ao

Trông cá cá lặn, trông sao sao mở

Buồn trông con nhện chăng tơ..."

Sầu nhớ quá, nhưng... còn nhiều việc phải làm. Tình yêu không thể là cứu cánh duy nhất!

Nét chủ yếu của tính cách dân tộc trong bài thơ Tương tư chính là khuynh hướng cấu tứ khái quát mang ý nghĩa về độ chín: chín nhớ mười mong dài theo tháng ngày, dẫu biệt vô âm tín vẫn tiếp tục chờ đợi: Bao giờ bến mới gặp đò. với niềm hi vọng xa vời: Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?... và chỉ đến mức ấy thôi, chứ không phải kiểu phản ứng quyết liệt: Rồi anh chết, anh chết sầu chết héo - linh hồn anh thất thểu dõi hồn em... như chàng lãng mạn trong bài Ao ước của Tế Hanh- ý tứ cực đoan này phải chăng chỉ phù hợp với tâm lí một số độc giả thành thị - Phong cách cấu tứ thơ tình yêu với các mức độ tình cảm phù hợp dân tộc tính như vậy đã xuất hiện trong hầu hết những bài thơ của Nguyễn Bính. Những nhân vật trữ tình thơ Nguyễn Bính (người thật hoặc hư cấu, khách thể hoặc chủ thể) dẫu có tâm trạng muốn yêu đơn phương, tình tuyệt vọng... đều ứng xử có chừng mực: một chàng trai bị người yêu thờ ơ, chỉ than thở: Tình tôi mở giữa mùa thu - Tình em lẳng lặng kia như buồng tằm(Đêm cuối cùng), một cô gái bị lỗi hẹn cũng nhẫn nại đợi chờ: Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày - Bao giờ em mới gặp anh đây (Mùa xuân), anh lái đò kia thất tình phẫn chí định bỏ nghề, nhưng rồi lại thôi: Lang thang anh dặm bán thuyền - Có người trả chín quan tiền lại thôi. (Anh lái đò), một chàng trai thất tình không oán hờn mà chẳng nặng lời: Em đã sang ngang với một người - Anh còn trồng cải nữa hay thôi? - Đêm qua mơ thấy hai con bướm - Khép cánh tình chung ở giữa trời (Hết bướm vàng), đau đớn hơn: người yêu yểu mệnh, nhưng nỗi đau ấy đã hòa tan cùng mộng ảo: Đêm qua nàng đã chết rồi - Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng - Hồn trinh còn ở trần gian - Nhập vào bướm trắng mà sang bên này (Người hàng xóm)... và trước thái độ quá thờ ơ của cô gái hái mơ, khách đa tình chỉ trách móc mơ màng:

"Cô hái mơ ơi, cô gái ơi

Chả trả lời nhau lấy một lời

Cứ lặng trôi đi, rồi khuất bóng

Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi"

Đặc điểm dân gian, dân tộc ấy trong cấu tứ khiến những bài thơ tình Nguyễn Bính, trước và sau 1945 dễ dàng tìm được sự đồng cảm và tiếp đón hào hứng của một số lượng độc giả lớn(thành phố và tỉnh nhỏ, thành thị và nông thôn...) mà có lẽ chưa nhà thơ lãng mạn nào đạt được.

Quảng đại quần chúng độc giả tìm đến thơ tình Nguyễn Bính còn vì những bài thơ mang tình tứ gần gũi với tâm hồn, tính cách người Việt ấy đã được thể hiện bằng một thứ từ ngữ điệu (giọng) thân quen: giọng ca dao dân ca. Tình ca Tương tư, đó là thể thơ lục bát ngàn xưa dịu ngọt giàu tính nhạc, vần phong phú, lối đan chữ (chín nhớ mười mong), kiểu suy tưởng vật thể hóa (Lá xanh nay đã thành cây lá vàng), và những từ có vùng mờ ngữ nghĩa dẫn thi tứ lan tỏa man mác (Biết cho ai, hỏi ai người biết cho...) Biểu hiện đậm đà chất giọng ca dao dân ca trong Nguyễn Bính phải chăng là các bài: Chân quê, Đêm cuối cùng, Chờ nhau, Giấc mơ anh lái đò, Người hàng xóm và Lỡ bước sang ngang) Bài thơ đã dân gian hóa đến mức được dùng để ru em. Đông đảo người đọc đến với thơ tình yêu Nguyễn Bính còn do những dòng thơ thuần tính cách người Việt đó là đã đánh thức biết bao kỉ niệm êm đềm về quê hương xứ sở thân yêu... Trong bài Tương tư, đó là hình ảnh: thôn Đoài, thôn Đông, bến nước, đầu đình, giàn trầu, hàng cau... ở những bài thơ khác của Nguyễn Bính, cũng tràn ngập các hình ảnh gần gũi, những con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên các vườn hoa cải vàng, vườn chanh, vườn cam, vườn bưởi ngào ngạt hương bay, ven đê là ruộng dâu, bãi cháy, bãi đất, vườn chè, bên ao bèo, bên giếng khơi, giậu mùng tơi xanh rờn... là những thôn nữ đôn hậu dệt lụa chăn tằm, đi trẩy hội chùa, hội làng, xem hát chèo mùa xuân với trang phục đằm thắm, dây lưng đũi, yếm lụa sồi, áo đồng lẫm, quần lĩnh tía... nhưng anh lái đò, cô lái đò sống giữa hương đồng gió nội và dưới bầu Giời cao gió cả giăng như ban ngày...

Hương đồng gió nội trong thơ Nguyễn Bính sáng tác trước 1945, được đông đảo độc giả mến mộ dài lâu. Hiện tượng ấy khiến chúng ta nhớ lại điều dự báo có sức khái quát của tác giả Thi nhân Việt Nam 50 năm trước : Nếu các thi nhân ta đủ sức chăn thành để kể thừa di sản xưa, nếu họ biết tìm đến thơ xưa với một tấm lòng trẻ, họ sẽ phát huy được những gì vĩnh viễn hơn, sâu sắc hơn mà bình dị hơn trong linh hồn nòi giống. Nhất là ca dao sẽ đưa họ về với dân quê, nghĩa là với chín mươi phần trăm số người trong nước. Trong nguồn sống dồi dào và mạnh mẽ ấy, họ sẽ tìm ra những vần thơ không chỉ dành riêng cho chúng ta, một bọn người có học mới mà có thể làm nao lòng hết thảy người Việt Nam.

4. Diễn biến tâm trạng của chàng trai qua bài thơ "Tương tư" của Nguyễn Bính

Nguyễn Bính, một nhà thơ mới luôn tha thiết với những giá trị cổ truyền và tìm về với cội nguồn dân tộc để thổi vào những cung bậc cảm xúc của mình một hồn quê đậm đà, chân chất. Nếu như ở Huy Cận, chúng ta nhận thấy được sự ảnh hưởng của thể thơ lục bát cổ điển thì Nguyễn Bính lại là đại diện cho thể thơ lục bát dân gian mà bài thơ “Tương tư” là một minh chứng tiêu biểu. Với những ngôn từ giản dị, hình ảnh mộc mạc, bài thơ đã tả được tâm trạng tương tư của chàng trai quê với những cung bậc cảm xúc, những diễn biến tâm lý đa dạng nhưng cũng vô cùng chân thành và bình dị.

“Tương tư”, một cảm xúc, một căn bệnh khó lòng mà tránh khỏi của những người đang yêu, đặc biệt là những buổi đầu, những khi mà tình yêu còn e ấp trên môi, chưa dám tỏ bày. “Tương tư” thường được hiểu là tâm trạng nhớ nhung, mong ngóng của đôi trai gái khi yêu, nhưng trong thực tế, diễn biến tâm trạng này chỉ xảy ra ở một phía mà cụ thể trong bài thơ này, đó là tâm trạng nhớ mong của chàng quê chất phác:

"Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người"

Cũng như biết bao tâm hồn đã và đang tương tư khác, nỗi tương tư của chàng trai cũng được bắt đầu bằng sự mong nhớ. Nhưng kì lạ thay, tại sao ở đây lại là “thôn Đoài nhớ thôn Đông” mà không phải là ai đó nhớ một ai đó? Đơn giản bởi một lẽ, nỗi tương tư ấy đã thấm vào cả cảnh vật và lan tỏa khắp không gian, cũng như đại thi hào Nguyễn Du đã nhận xét: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Việc sử dụng hình ảnh hai thôn để diễn tả thay cho hai cá thể đang yêu của Nguyễn Bính quả thật rất tinh tế, nó có thể hiện được một cái gì đó đậm đà thắm thiết qua tiếng “nhớ” mà cũng có gì đó e ấp, thẹn thùng chưa dám nói ra. Thêm vào đó, điệp từ “một người” được ngăn cách bằng “chín nhớ mười mong” vừa như một nhịp cầu mà cũng vừa như tấm bình phong ngăn trở của mối tình đậm đà buổi sơ khai này vậy. Từ đó, tác giả đi đến một kết luận, một sự đúc kết sâu sắc:

"Gió mưa là bệnh của giời

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng"

Đối với những ai đã, đang và mong muốn được dấn thân vào biển yêu thương ngọt ngào xen lẫn những khổ đau thì tương tư là căn bệnh không thể nào tránh khỏi. Nó làm cho những tâm hồn yêu đương phải mệt mỏi, dằn vặt nhưng cũng chính vì thế mà tình yêu trở nên nhiều màu sắc hơn.

Tâm trạng chàng trai quê không dừng lại ở sự nhớ mong mà từ sự nhớ mong đó, cảm xúc và diễn biến tâm lý của chàng trai được nâng lên một bậc khác đó là sự mong ngóng, đợi chờ, muốn nhìn thấy người mình yêu. Tâm trạng đó được bộc lộ rõ rang qua bốn câu thơ tiếp theo:

"Hai thôn chung lại một làng

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này

Ngày qua ngày lại qua ngày

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng"

Hai câu đầu cứ như có một ý gì đó tự hỏi mà cũng có một ý gì đó hờn trách nhẹ nhàng. Gấn thế cơ mà, nhưng sao “bên ấy” chẳng sang chơi “bên này”, để cho bên này phải đợi mong mỏi mòn, phải “ra ngẩn vào ngơ”, phải tương tư khổ sở thế này, “Bên ấy” có biết cho “bên này” chăng? Sao cứ còn hờ hững mãi? “Ngày qua ngày lại qua ngày”, thời gian cứ thế trôi kéo theo sự nhớ mong dai dẳng trong tâm hồn của “bên này”. Lâu lắm rồi, chờ đợi đã bao ngày rồi, đến nỗi “lá xanh” kia cũng đã “nhuộm” vàng rồi “bên ấy” à! Đối với những tâm hồn đang yêu đương cháy bỏng thì một ngày hay thậm chí một giờ một khắc không gặp người mình yêu cũng dài như mấy năm vậy. Sự vận động của thời gian được tác giả miêu tả bằng điệp ngữ “qua ngày” cùng tự “lại” ở đây đã cụ thể hóa thời gian, diễn tả được bước đi chậm chạp, nặng nề của thời gian dưới cái nhìn của một tâm trạng nóng lòng chờ đợi. Bên cạnh đó, bằng việc sử dụng hai sắc màu chủ đạo “xanh” và “vàng” cùng động từ “nhuộm” ở đây không chỉ diễn tả được sự vận động trong một quãng đường khá dài của thời gian mà còn cho thấy được tâm trạng héo mòn, khô úa vì đợi chờ của nhân vật trữ tình. Cái tâm trạng chờ mong, nóng lòng, bồn chồn đến “ra ngẩn vào ngơ” này cũng không hiếm gặp trong ca dao dân ca Việt Nam, ví như câu:

"Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt"

Cái trạng thái vô hồn của chủ nhân chiếc khăn trong bài ca dao kia cũng tương tư như tâm trạng của chàng trai quê trong “tương tư” vậy. Một tâm trạng bồn chồn như ngồi trên đống lửa khi một ngày không có em, một ngày không được nhìn thấy em dù chỉ trong một tích tắc.

"Bảo rằng cách trở đò giang

Không sang là chẳng đường sang đã đành"

Em ơi, nếu như hai ta phải ngăn cách nhau bởi sông dài, biển rộng, đi lại khó khăn thì đành vậy thôi em à! Nhưng em ơi đây chỉ cách có “một đầu đình”, “có xa xôi mấy mà tình xa xôi”? Lúc bấy giờ, chúng ta có thể cảm nhận được mộ sự hờn trách nhẹ nhàng, cái lối hờn mát trách yêu của một tâm hồn nhớ mong cháy bỏng. Vì rằng đường xa khó khăn nên em không sang hay cái bụng của em không muốn sang. Phải chăng ở bên thôn Đông ấy em có tìm được một niềm vui nào đó to lớn hơn, tìm được một niềm vui nào đó to lớn hơn, tìm được một niềm hạnh phúc nào đó ấm áp hơn nên em đã quên mất một cây si, cây tương tư đang chờ em ở thôn Đoài mất rồi.

"Tương tư thức mấy đêm rồi

Biết cho ai, hỏi ai người biết cho"

Cũng vì nhớ mong, ôm ấp hình bóng ai kia mà em ơi đã bao đêm anh thức trắng. Nhựng có mấy ai biết cho mối tình đơn phương này, có ai hiểu cho con tim nồng cháy nơi anh nên anh đành phải ôm trọn một mối tương tư tận sâu vào trong tâm khảm. Tâm trạng chàng trai lúc bấy giờ dường như có gì đó bối rối và hụt hẫng. Một ngày không gặp thì nhớ mong, hai ngày không gặp thì bồn chồn, lo lắng, ba ngày không gặp thì hờn mát, trách yêu, rồi nhiều nhiều ngày nữa không gặp thì nỗi tương tư giờ đây đã chuyển sang một cung bậc cảm xúc cao hơn, phức tạp hơn: Đó là sự buồn bã, không ăn, không ngủ, biểu hiện của một tâm hồn bị nỗi nhớ mong dày vò, dằn vặt. Biết khi nào đây? Khi nào “bến mới gặp đò”, “hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau”. Đến đây, hệ thống những hình ảnh được tác giả sử dụng đã ngày một đa dạng và phong phú hơn cũng như tâm trạng chàng trai đang diễn biến ngày càng phức tạp và đa cung bậc hơn. Điểm lại tâm trạng ấy, ta có thể thấy rõ ràng một sự tăng tiến trong cảm xúc của nhân vật trữ tình: Từ nhớ mong đến chờ đợi, bồn chồn rồi đến hờn trách và tự vấn bản thân để từ đó nâng lên một bậc nữa trong cảm xúc. Cũng là sự mong muốn nhưng đã không còn chỉ là nỗi mong muốn được gặp nhau mà giờ đây, chàng trai muốn được gắn kết, được giao hòa và được kết tóc se duyên cùng người “bên ấy” ở “thôn Đông”.

"Nhà em có một giàn giầu

Nhà anh có mọt hàng cau liên phòng"

Nhắc đến trầu cau, chúng ta nhớ ngay đến cái đám cưới cổ truyền của dân tộc, nhớ ngay đến một sự khăng khít, gắn bó của lứa đôi và nhớ ngay đến sự chung thủy, gắn kết của hai tâm hồn đang hòa nhập làm một. Cách xưng hô của chàng trai ở đây cũng đã thay đổi, không còn là “thôn Đoài”, “thôn Đông” hay “bên ấy”, “bên này”, cũng không còn là “bến” – “đò” hay “hoa” – “bướm” mà đã trở thành “anh” và “em”. Điều đó thể hiện một khát khao gắn kết mãnh liệt, muốn cùng người mình yêu thương sống trọn đời trọn kiếp để tạo nên một cái kết có hậu và đẹp đẽ của mối duyên quê, tình yêu chất phác, đậm đà.

Suốt bài thơ, chúng ta không khó để bắt gặp những hình ảnh đậm chất dân gian, đơn giản, mộc mạc mà có sức gợi tả, gợi cảm mạnh mẽ. Những hình ảnh ấy luôn song đôi với nhau: “thôn Đoài – thôn Đông”, “bến – đò”, “hoa – bướm”, “trầu – cau”,… và ngày càng tăng tiến trong việc thể hiện sự giao hòa, gắn kết với nhau phù hợp với việc miêu tả tâm trạng tương tư diễn biến phức tạp của chàng trai. Cũng qua những hình ảnh đó mà phong cách thơ của Nguyễn Bính cũng được bộc lộ và làm rõ, một phong cách thơ đậm “hồn quê” và thiết tha với những giá trị cổ truyền của dân tộc đang dần dần mai một lúc bấy giờ. Đọc “Tương tư”, chúng ta như đọc mộ bài ca dao dài vậy, cũng những hình ảnh quá đổi bình dị và thân quen, cùng lối viết giản dị và mộc mạc, cũng thể lục bát dân gian cô đọng mà giàu sức gợi tả. Tẩt cả hòa quyện vào nhau tạo nên một hồn thơ, một phong cách thơ rất Nguyễn Bính.

“Tương tư”, một thi phẩm xuất sắc có sức phổ cập rất lớn trong nhân dân. Bằng nét chung rất riêng và cũng là nét riêng rất chung của ngòi bút Nguyễn Bính, bài thơ đã thể hiện một cách chân thực, bình dị diễn biến của một tâm trạng tương tư: Nhớ mong, bồn chồn, hờn giận, trách móc và khát khao giao hòa gắn kết. Từ đó bài thơ đã nâng lên, trở thành tinh hoa của văn học dân gian, thể hiện cái đẹp đẽ, đáng yêu của mối tình quê thắm thiết, bình dị.

5. Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính chân thật và mộc mạc như tình yêu của người bình dân trong ca dao. Hãy phân tích bài thơ Tương tư của ông để làm sáng tỏ điều đó.

Trong khi hầu hết các nhà thơ mới - theo nhận xét của Hoài Thanh "đều dội lên đầu dăm bảy nhà-thơ Pháp” thì Nguyền Bính đã tìm một lối đi riêng, trở về với văn hóa dân gian, với những câu hát cửa đình, rặng mồng tơi, bến đò, cây đa, giếng nước... Ông đã trở thành "chủ soái',' của trường phái "thơ mới dân gian" gồm Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ Bàng Bá Lân. Và cũng như các nhà thơ khác, thơ Nguyễn Bính có tiếng hát tình yêu song không mãnh liệt, dữ dội như tình yêu trong thơ Xuân Diệu, không tang thương như thơ tình của Hàn Mặc Tử. Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính chân thật và mộc mạc như tình yêu của người bình dân trong ca dao. Điều đó thể hiện rất rõ trong "Tương tư" - bài thơ nổi tiếng của thi sĩ.

Tương tư là một trong bốn trạng thái tâm lí của nam nữ yêu nhau nên bài thơ hiển nhiên nằm trong thơ tứ quen thuộc của thơ ca muôn đời. Từ Kinh Thi, người Trung Quốc đã bảo nhau "Nhất nhật bất kiến tam thu hề (Một ngày không gặp nhau dài như ba năm). Theo câu thơ trên thì cách đây hàng nghìn năm, người ta đã phát hiện triệu chứng nhớ nhau của bệnh tương tư. Trước khi Nguyễn Bính viết "Tương tư, ca dao đã có rất nhiều bài diễn tả trạng thái này của con người:

"Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhơ sai

Khăn chùi nước mắt"

Đến "thơ mới”, khi mà tình cảm riêng tự của con người được giải phóng, mối tương tư cũng thành trăm hình vạn trạng. Nói như Lưu Trọng Lư: "Cớ cái tình say đắm, cái tình thoáng qua, cối tình trong lời lát..." và chúng đã hóa thành - "Tương tư' của Xuân Diệu, Hai sắc hoa ti gôn của TTKH... - những bài thơ nổi tiếng một thời. Như vậy, trước Nguyễn Bính đã có những đỉnh cao, vượt qua không phải là dễ, song "Tương tu” của ông không những sông mà còn sống mãi. Bài thơ là sự rung động rất tinh tế của thi sĩ thơ mới kết hợp nhuẩn nhuyễn với tính dân tộc, và chất dân gian được thể hiện trước hết ở sự lựa chọn nhân vật trữ tình. Đó là một chàng trai chân quê có cảm tình với một cô gái đồng nội. Có lẽ đôi bên mới gặp nhau đâu đó trong một buổi tát nước đêm trăng:

"Hôm qua trắng sáng mờ mờ

Em đi tát nước tình cờ gặp anh

Hay tỏng một dịp đi hát sân đình

Hỡi cô hát ống tối qua

Đêm nay hát nữa cho ta hát cùng"

Nếu chàng mạnh dạn "xăm xăm băng lối" thì có lẽ sẽ không có chuyện nhưng ở đây "một trời chín nhớ mười mong một người". Cái "tôi” trữ tình của chàng trai là cái "tôi" đa tình nhưng không bạo dạn như trong thơ Xuân Diệu "Phải nói yêu trăm bản đến nghìn lần", mà nhút nhát như cái chất vốn có của những chàng trai quê.

"Chiều chiều lại nhớ chiều chiều

Nhớ người yếm thắm dải diều thắt lưng"

Chính cái "tôi" đa tình nhưng nhút nhát đã dẫn đến một nghịch lí. Cái "tôi” được đạt trong tâm cảnh nhớ mong, xa xôi cách trở trong lúc không có một khoảng cách nào. Nguyễn Bính rất giỏi diễn tả sự xa cách nhớ thương, có khi đó chỉ là 'một giậu mồng tơi" và lần này là cách một đầu đình.

"Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người"

"Thôn Đoài", "Thôn Đông" là những từ chỉ địa danh làng xóm quen thuộc trong ca dao, dân ca, khác với những từ bóng bẩy của thơ mới, đồng thời, nó được sử dụng như một hình ảnh ẩn dụ khiến cho bài thơ có dáng dấp đồng quê mộc mạc. ''Một người chín nhớ mười thương một người", câu thơ chứa đựng một cấu trúc ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo. "Một người" ở đầu câu, "một người ở cuối câu thơ, còn ở giữa là một thành ngữ dân gian "chín nhớ mười mong". Cấu trúc ấy khiến, ta liên tưởng một bài ca:

"Chàng ở đầu sông Tương

Thiếp ở cuối sông Tương"

Câu thơ của Nguyễn Bính gợi lên hình ảnh một người ở đầu này, một người ở đầu kia, song cái ngáng trở chính là sự nhút nhát, rụt rè chân quê. Chàng trai núp vào "thôn Đoài" như các chàng trai trong ca dao núp vào "mận"và "đào”. "Bây giờ mận mới hỏi đào: Vườn hồng đã có ai vào hay chưa". Song với cách nói bóng gió, chàng trai đã ngắm bày tỏ với cô gái nỗi nhớ nhung xa cách đang diễn ra trong lòng chàng và niềm mơ ảo hạnh phúc được gìn người mình yêu. "Thôn Đoài”, "thôn Đông" là khoảng cách gần đủ để quen biết mà đủ xa mà để nhớ thương. Qua đây, chàng trai đã ý nhị giới thiệu cho cô gái cũng chân quê như chàng, xứng đôi vừa lứa đủ để chàng bắc nhịp cầu "chín nhớ mười mong”. Lời nói được hoán cải từ thành ngữ "chín nhớ mười thương" mà chàng trai dùng để bộc lộ nỗi riêng tư của mình, diễn tả sự xa cách trong tình yêu, yêu người nhưng không được gặp, tình yêu chưa được đền đáp. Thậm chí người ta còn chưa biết mặt nên sinh ra bệnh tương tư, bệnh nhớ. Cái nhớ của một người dành cho một người. Phải chăng đó là bi kịch trong tình yêu? Chàng trai đành thổ lộ lòng mình với người trong mộng, với cô gái trong tưởng tượng.

"Hai thôn chung lại một làng

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?

Ngày qua ngày lại qua ngày

Lá xanh nhuomj đã thành cây lá vàng

Bảo rằng cách trở đò giang

Không sang là chẳng đường sang đã đành

Nhưng đây cách một đầu đình

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi

Tương tư thức mấy đêm rồi

Biết cho ai, hỏi ai người biết cho

Bao giờ bến mới gặp đò

Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?"

Cách đây 200 năm, Kim Trọng tương tư Thúy Kiều và bày tỏ tâm trạng nhớ thương ''Thầm thương trộm nhớ bấy lâu đã chồn". Còn lời của chàng trai trong bài thơ không phải là lời thể hiện thế giới nhớ nhung mà là lời than, lời kể lể và lạ lùng nhất mà lời trách móc như những câu hỏi xoáy vào lòng người: Cớ sao ? Có xa xôi máy ? Bao giờ mới gặp? Điều ấy không hề thấy trong ca dao và trong văn chương bác học vì nó trái với quy luật. Từ xưa đến nay, trong chuyện tình cảm, người con trai thường phải đến với người con gái. Đằng này cô con gái trong bài thơ đâu biết có người yêu mình thế mà chàng lại than lại trách. Nhưng chính đấy là chỗ hay của bài thơ. Lời than của chàng trai bề ngoài thì vô lí nhưng đọc lên ai cũng cám thông vì đó là sự thế hiện cái "tôi" nhút nhát, chân quê và tình cảm sâu đậm của chàng qua không gian và thời gian mà rõ nhất là sự thay đổi vể không gian. Tất cả những gì thuộc về thế giới của người yêu đối với chàng đều rất gần gũi, gần gũi đêu mức không còn khoảng cách.

Đúng là khi đang yêu, người ta muốn hòa nhập là một. Tản Đà đã từng có câu: "Mình với ta tuy hai mà một. Ta với mình tuy một mà hai". Mong ước hòa nhập nhưng không thể vì vẫn còn "bên ấy", "ben này", vẫn còn ngăn cách. Ngăn cách nhau có một đầu đình mà không sang được thì đúng là không gian không xa mà tình ý lại xa. Tinh cảm của chàng trai dành cho cô gái sâu đậm, nó còn được thể hiện qua thời gian.

Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh cổ đọng "trai - can" và nỗi nhớ thướng không nguôi.

"Nhà em có một giàn giầu

Nhà anh có một hàng cau liên phòng

Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông

Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?"

Trong văn chương Việt Nam, trầu cau là biếu tượng cho tình yêu và hôn nhân. Bốn câu thơ là niềm mong ước trong sáng và chân thật của người đang yêu, chân thật như chính tình cảm mà chàng trai đã dành cho có gái. Song ước mơ ấy cũng chỉ nằm trong mộng tường mà thôi. Từ nỗi nhớ của một người dành cho một người ở đầu bài, đến cuối bai đã chở thành vùng không gian này nhớ vùng không gian kia, trong nỗi nhớ thắp lên ước mơ muôn thuở của tình yêu "Thân Đoài ngồi nhớ thôn Đông"...

Không ồn ào mà dịu êm, không dữ dội mà lặng lẽ, không mãnh liệt mà chân thành mộc mạc như tình yêu cửa người bình dân trong ca dao. Đó chính là tình yêu trong thơ Nguyễn Bính, sâu lắng và không kém phần da diết, đã dệt nên khúc "Tương tư" cho muôn đời.

6. Tương tư - một trạng thái tâm hồn vừa phổ quát vừa riêng biệt; một cái tôi thơ mới mang đậm chất thôn quê và chất dân gian

Trong phong trào Thơ mơi, mỗi nhà thơ đã góp mặt bằng một phong cách riêng. Nếu người ta thấy một Xuân Diệu "Tây "quá, "tân kì" quá thì người ta lại tìm thấy ở cái tôi thơ mới Nguyễn Bính một người "nhà quê". "Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta..." (Hoài Thanh- Thi nhân Việt Nam). Chân quê, hồn quê, tình quê, nhà quê,... là những danh từ quen thuộc khi nói đến hồn thơ Nguyễn Bính. Tương tư,là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ đó. Nhà thơ vừa nâng trạng thái tương tư lên tầm phổ quát lại vừa thể hiện những nét riêng biệt, độc đáo mang đậm phong cách thơ.

Nguyễn Bính là một nhà thơ lớn của thơ ca lãng mạn Việt Nam thời kì 1932- 1945. Tiếng thơ của ông góp vào thi đàn Thơ mới một phong cách riêng, một cái hay cái đẹp riêng có sức lôi cuốn hấp dẫn riêng đối với người đọc.

Nói đến hồn thơ Nguyễn Bính là nói đến một Hồn thơ "chân quê"nhưng trước sau ông vẫn là một nhà thơ mới. Nguyễn Bính đã đánh thức dậy "hồn quê" bởi sự hòa điệu giữa cảnh quê, người quê, tình quê, lời quê và giọng quê trong thơ. Bước vào thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Bính như bước vào không gian làng quê và thời gian cổ tích, ở đó người đọc bắt gặp những cảnh, những người "chính quê" và chợt lắng nghe giọng tâm tình đậm đà sắc thái dân gian. Tuy nhiên, "ai bảo người không nhà quê hẳn?" bởi "dấu thị thành chẳng những mang trên quần áo, Mà còn in vào tận trong tâm hồn" (Hoài Thanh). Cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bính với những "thú giang hồ", những bi kịch tình yêu đơn phương, những nỗi buồn, sự cô đơn,... chính là cảm xúc, tâm trạng của cái tôi thơ mới mang ý thức, khát vọng cả nhân "khát vọng được thành thực... khẩn thiết đến đau đớn" (Hoài Thanh).

Một dấu ấn sâu đậm góp phần tạo nên phong cách thơ Nguyễn Bính là thể thơ lục bát. Trong phong trào Thơ mới, nếu lục bát của Huy Cận cổ điển hơn thì lục bát của Nguyễn Bính lại dân gian hơn. Nguyễn Bính được xem là thi sĩ có sở trường, thậm chí là có bản năng về lục bát. Ông viết lục bát nhanh và dễ như lời nói thường. Dáng điệu những câu lục bát của ông vừa rất thời đại vừa phảng phất ca dao, mang được cái hồn của ca dao ở giọng điệu, cách ví von, cách lựa chọn và tố chức lời thơ.

"Tương tư" là nỗi nhớ nhau trong tình yêu đôi lứa. Tâm lí tương tư rất phức tap, không chỉ có nhớ nhung, thương cảm mà còn đẩy những ước ao, có cả hờn giận, trách móc. Vì vậy, khi giãi bày nỗi tương tư, không chỉ có những lời bộc bạch xuôi chiều mà còn có cả những lời dỗi hờn bóng gió, thậm chí cả những lời nói mát mẻ vòng vo, lấp lửng nữa. Như vậy, tương tư chính là dạng thức sống động nhất của tình yêu. Ai đã yêu mà chẳng tương tư. Nỗi tương tư của nhân vật trữ tình ở bài thơ này của Nguyễn Bính cũng vậy.

Nhân vật bộc lộ tâm trạng tương tư là chàng trai thôn Đoài. Đối tượng mà chàng tương tư là cô gái thôn Đông. "Hai thôn chung lại một làng; "nhưng nổi tương tư thì diệu vợi, da diết. Nhớ nhung là trạng thái cảm xúc chủ đạo:

"Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người

Gió mưa là bệnh của trời

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng

Hai thông chung lại một làng

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?

Ngày qua ngày lại qua ngày

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng."

Chàng nôn nao mơ tưởng:

"Bao giờ bến mới gặp đò

Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau"

Rồi ước vọng xa xôi:

"Nhà em có một giàn giầu

Nhà anh có một hàng cau liên phòng

Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông

Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào"

Tất cả những trạng thái cảm xúc trong nỗi tương tư của chàng trai được diễn biến theo lối đan cài, lồng ghép và chuyên hóa sang nhau rất tự nhiên, chân thực. Trong nhớ thương có khao khát, khao khát cháy bỏng trở thành ước vọng xa xôi mà thường trực. Ước vọng, khao khát, nhớ thương, mong ngóng khiến lòng yêu cảm thấy băn khoăn, tưởng tượng xa xôi để rồi thở than, hờn trách,... Bấy nhiêu trạng thái cảm xúc dồn nén thường trực khiến chàng trai cảm thấy đứng ngồi không yên trái tim yêu thương, mong nhớ đã thuộc về người, nỗi tương tư bao trùm cả không gian và thời gian.

Tâm lí tương tư rất phức tạp, không chỉ có nhớ nhung, thương cảm mà còn đầy những ước ao, có cả hờn giận, trách móc. Vì vậy, khi giãi bày nỗi tương tư, không chỉ có những lời bộc bạch xuôi chiều mà còn có cả những lời dỗi hờn bóng gió, thậm chí cả những lối nói mát mẻ, vòng vo, lấp lửng nữa.

Bề ngoài, chàng trai trách móc cô gái là điều vô lí. Trách người ta sao được khi người chủ động phải là mình. Người ta có yêu mình đi nữa cũng không thể chủ động tìm đến bày tỏ tình yêu. Mình thụ động ngồi chờ đợi lại còn trách móc.

Nhưng trong bề sâu, lời trách móc của chàng trai lại không hề vô lý. Thứ nhất, đây là một bài thơ, tác giả tạo ra một tình huống trữ tình để bày tỏ nỗi niềm chứ không câu nệ vào thực tế. Nhà thơ phải đặt chàng trai vào vai trò thụ động chờ đợi mới có thể bộc bạch được tâm trạng tương tư của một người trai quê như thế. Thứ hai, lối trách này không phải vì ghét, không giống như sự quy kết trách nhiệm, đổ lỗi thông thường mà trách vì yêu. Do quá mong nhớ, do bị nỗi nhớ mong giày vò, người trong cuộc dễ tưởng mình bị hờ hững nên sinh ra "hèm ngược trách xuôi" thổi, không có hàm ý ghét bỏ. Nói khác đi, trách chí là một cách bộc bạch tình yêu - "trách yêu".

Tâm trạng chờ đợi sốt ruột và mòn mỏi không tách rời với việc diễn tả thời gian. Nổi bật lên là việc dùng cách ngắt nhịp, cách điệp, giọng kế lể và việc tả cảnh ngụ tình, dùng sự biến đổi không gian để biểu hiện thời gian. Ví như trong cặp câu: Ngày qua ngày lại qua ngày Lá xanh nhuộm đã thành đâu lá vàng.

Câu lục: Ngày qua ngày lại qua ngày

Nhịp 2/2/2 thông thường trong lục bát truyền thống đã được ngắt thành nhịp 3/3 (Ngày qua ngày lại qua ngày), ý và lời về sau lập lại vế trước. Cách ngắt nhịp này khiến chữ "lại" ở đầu nhịp sau trở thành điểm nhấn của ngữ điệu. Nó gợi được dòng thời gian cứ trôi qua hết sức chậm chạp, ngày mới chỉ là sự lặp lại ngày cũ một cách chán ngán, vô vọng. Cả việc ngắt nhịp lặp vế câu và nốt nhân giọng ở chữ "lại" khiến cho giọng thơ như lời than thở, kể lể ngán ngẩm. Tất cả điều đó đã làm hiện lên hình ảnh một người con trai với tâm trạng nóng lòng chờ trông đến mòn mỏi.

Câu bát: Lá xanh nhuộm đã Thành cây lá vàng

Câu thơ diễn tả thời gian và tâm trạng tinh tế, ý nhị. Thời gian diễn ra ở câu trên đã chậm chạp, sốt ruột, nhưng mới qua lời kể thôi. Đến câu này, thời gian mới hiện lên sinh động. Thời gian có màu, đúng hơn là thời gian hiện lên qua việc chuyển màu: "lá xanh" chuyển thành "lá vàng". Ngày anh bắt đầu đợi chồi, cây hãy còn xanh, vậy mà bây giờ, lá xanh đã vàng cả rồi. Thời gian thù địch với tâm trạng. Thời gian càng chậm, tâm trạng càng nặng nề. Tâm trạng càng mỏi mòn, thời gian càng chậm chạp lê thê. Điều tinh tế nhất là chữ "nhuộm". Thứ nhất, chữ ''nhuộm'' diễn tả được thời gian chậm chạp. Có thể so sánh với chữ "nhuộm" trong câu Kiểu của Nguyễn Du: "Rừng phong thu (lá nhuốm màu lá vàng". "Nhuốm" nói đến sự biến đổi sắc màu mới diễn ra, đang diễn ra, còn chưa hoàn tía sắc màu sự vật chủ yếu biến đổi ở bể mặt, bể ngoài. Còn "nhuộm" có vẻ đã hoàn tất. Thời gian dài tới mức đủ để cho màu này chuyển hẳn sang màu khác, hoàn toàn định hình rỗi. Thứ hai. chữ "nhuộm" để ngỏ chủ thể. Ai nhuộm? Chủ thể hàm ẩn. Không hẳn thời gian, cũng không hẳn là sự biến chuyển nội tại của cây lá mà chính là nỗi tương tư. Tương tư đã khiến lòng người héo hon, đã nhuộm cây kia vòng lia. Kẻ tương tư và cái cây ấy có mối tương giao thật kì lạ. Ờ đây vừa là nhân chứng của mối tương tư, vừa là đồng minh của kẻ tương tư, là nạn nhân của bệnh tương tư, mà tựu trung, là hiện thân của nỗi tương tư đó. Có thể xem cái cây kia cũng là cây tương tư. Lối thể hiện như vậy thật tinh tế, ý nhị.

Tương tự vừa nâng trạng thái tâm hồn của nhân vật trữ tình lên tầm phổ quát đồng thời lại rất riêng biệt. Mối duyên quê của lứa đôi trong Tương tư đã hòa quyện trong cảnh quê khiến cho nỗi tương tư của chàng trai và mối nhân duyên của lứa đôi mang đậm nét chân quê. Những địa danh, cành vật, cây cỏ,... (thôn Đoài, thôn Đông lá, con đò, thuộc về chốn quê bao đời vừa tạo ra không gian quê kiểng cho nhân vật trữ tình bày tỏ mối tương tư, vừa là phương tiện, thậm chí còn là ngôn ngữ để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị.

Không chí đậm chất thôn quê, Tương tư còn đậm chất dân gian. Hình ảnh chàng trai thôn Đoài ngồi ngớ cô gái thôn Đông đã khiến cho thi sĩ mở rộng ra, khái quát lên thành ''Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông". Đây không chỉ đơn thuần là cách nói vòng, mà quan trọng hơn, nó tạo ra hai nỗi nhớ song hành và chuyển hóa gắn với hai chủ thể, hai đối tượng: người nhớ người và thôn nhớ thôn. Chính vì có người nhớ người mà có thôn nhớ thôn. Nó tạo cơ sở cho thủ pháp nhân hóa: "Thôn Đoài ngồi nhớ Nhưng sâu xa hơn, nó còn biểu đạt được cả một quy luật tâm lí: khi tương tư thì cả không gian sinh tồn bao quanh chủ thể như cũng nhuốm nỗi tương tư ấy. Vì thế mà có hai miền không gian nhớ nhau. Tràn đẩy cả bầu không gian tạo ra bởi hai thôn ấy là một nỗi nhớ nhung.

Hình ảnh trầu - cau cũng là hình ảnh đậm chất dân gian và giàu ý nghĩa. Đây không chỉ là hình ảnh cây lá thôn quê mà còn là hình ảnh chứa câu chuyện tình yêu đôi lứa chân -quê. Sâu xa hơn, hình ảnh trầu cay, vôi nồng, sắc đỏ gợi nhớ câu chuyên Sự tích trầu cau, gợi nhớ mối tình chung thủy, thắm thiết. Đặt trong nỗi tương tư, trầu cau như cũng ngẩn ngơ: "Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?". Thêm vào đó tác giả sử dụng lối biến âm của địa phương nồng thôn một số vùng đồng bằng Bắc Bộ (giầu- cau) càng làm cho mối tình quê đậm chất quê và chất dân gian.

Ngoài ra, trong bài thơ ta còn thấy Nguyễn Bính không biết do vô tình hay hữu ý đã tạo nên cả một hệ thống cặp đôi: thôn Đoài - thôn Đông; một người- một người : tôi- nàng; thôn- làng; bên ấy- bên này; lá xanh- lá vàng; bên - đó; hoa- hướng; ... Trong thực tế; những hình ảnh này luôn luôn đi với nhau, là hình bóng của nhau và có lúc ở trong nhau, nói đến hình ảnh này khiến người ta liên tưởng đến hình ảnh kia và ngược lại. Trong văn học, nhiều hình ảnh cũng đã được sử dụng với ý nghĩa tượng trưng cho tình yêu đôi lứa như bến và thuyền, hoa và bướm đặc biệt là trầu và cau, ở đây, Nguyễn Bính mở rộng liên tường, tạo thành cả một hệ thống các hình ảnh cặp đôi để diễn tả trọn vẹn ý nghĩa của khái niệm tương tư và tâm trạng của người tương tư đồng thời thể hiện khát vọng có đôi, có lứa, khát vọng có được nhau trong hạnh phúc lứa đôi.

Khát vọng tình yêu được biểu hiện qua Tương tư là khát vọng của cái tôi cá nhân thời thơ mới. Bài thơ mang vẻ đẹp của một bài thơ mới giàu chất dân gian. Trong quá trình tìm về với mạch nguồn ca dao truyền thống, những bài thơ lục bát của Nguyễn Bính mang một vẻ đẹp riêng, có sức mê hoặc và đế lại mối "tương tư" trong lòng người yêu thơ.

Hùng Cường

Nguồn Đắk Nông: https://baodaknong.vn/6-bai-phan-tich-tac-pham-tuong-tu-cua-nguyen-binh-hay-nhat-ngu-van-11-204021.html