'Đời là một cuộc hành trình'

Bộ ba ký sự 'Đi và học' dày hơn 1.000 trang của GS.TS. Bùi Chí Bửu, nguyên Viện trưởng Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long và Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam, vừa hoàn thành. Đây là chuyện kể về 63 tỉnh, thành trong nước và ở nhiều nước khác sau hơn 40 năm làm việc của một người chuyên nghiên cứu về lúa gạo – những câu chuyện chuyên môn lồng trong dòng lịch sử, văn hóa, du lịch với bao tình tự quê hương. Dịp này, Kinh tế Sài Gòn đã trao đổi với Giáo sư Bùi Chí Bửu, xoay quanh ba tập sách này.

GS.TS. Bùi Chí Bửu.

KTSG: Thưa Giáo sư, điều gì khiến ông nghĩ đến việc viết bộ sách “Đi và học” này?

– GS.TS. Bùi Chí Bửu: Tôi ra trường năm 1977, đi khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL); đi tìm lúa hoang trên Tây Nguyên rồi lang thang cả duyên hải Nam Trung bộ, sưu tập lúa bản địa. Tới năm 2006, tôi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm “chương trình giống” cả nước, có điều kiện đi kiểm tra các đề tài trồng trọt, chăn nuôi, cây rừng. Sau này, đi Đông Bắc, Tây Bắc, tôi đam mê những câu chuyện của sông Hồng và sông Đà. Khi tham gia Chương trình Bảo tồn tài nguyên di truyền thực vật, tôi đi cùng các tổ chức quốc tế thăm rừng Cúc Phương và nhiều công viên quốc gia ở Quảng Bình, Hà Giang, Cao Bằng, Đắk Nông.

Riêng ở những nước đi nhiều như Philippines, Thái Lan, Ấn Độ, tôi học được nhiều điều, đặc biệt là văn hóa đạo Hindu và đạo Phật. Sau này tìm hiểu về văn hóa Óc Eo tôi thấy rất giống nhau. Điều này minh chứng giao dịch của các thương nhân từ mấy ngàn năm trước đã cởi mở rồi. Và tôi cũng ngộ ra một điều là cây lúa, ngoài chuyện an ninh lương thực thì nó còn là văn hóa của những cư dân châu Á.

Đi và học trong quá trình 40 năm như vậy, tôi phải cảm ơn ngành nông nghiệp đã cho tôi điều kiện đi nhiều như vậy và tôi nên kể lại những câu chuyện bổ ích này.

KTSG: Giáo sư có thể giới thiệu ngắn về mỗi tập?

– Tập một chủ yếu kể chuyện đi nước ngoài, 30% là nói về các tiến bộ khoa học trong từng hội nghị quốc tế và chuyện về một số tỉnh trong nước, trong đó có hai tỉnh tôi nặng nợ nhất là Đồng Tháp, nơi sinh ra và Tây Ninh, nơi tôi tản cư, trưởng thành và lớn lên. Tập hai nói về ĐBSCL, Đông Nam bộ, Tây Nguyên và duyên hải miền Trung. Quyển ba là một khao khát tìm hiểu về vùng đất của tổ tiên, đồng bằng sông Hồng từ hơn 300 năm trước cho đến thời nay.

KTSG: Dường như ông lạc quan về ĐBSCL?

– Tôi rất lạc quan về ĐBSCL. Đồng bằng mình có tiềm năng lớn lắm. Tôi ghi lại đánh giá của Viện Nông nghiệp Quốc gia Pháp (INRA) năm 2006, họ có một so sánh rất thú vị, nếu như nông sản của nước Pháp có khả năng phục vụ 450 triệu người tiêu dùng ở châu Âu/năm, thì riêng ĐBSCL của Việt Nam; lúa gạo, cây ăn quả nhiệt đới, rừng ngập mặn, thủy sản có thể phục vụ 900 triệu người tiêu dùng trên thế giới, theo mô phỏng sinh học. Cho nên những bài viết về ĐBSCL mỗi tỉnh một vẻ, không tỉnh nào giống tỉnh nào.

Người ta nói đồng bằng mình chỉ “lấy giạ đong lúa không lấy giạ đong chữ”. Đó là chuyện xưa rồi. Nếu mình quan tâm tới chuyện học thì ĐBSCL sẽ lên rất nhanh. Và mình phải chấp nhận điều kiện thiên nhiên của đồng bằng. Đây là vùng đất biển lùi, cao trình chỉ khoảng 0,6-0,7 mét so với mặt nước biển; đất sét rất nặng thuộc nhóm 2:1, nắng thì co lại, mưa thì giãn ra, không có cây trồng nào có thể phát triển mạnh bằng cây lúa.

Nể nhất là kỹ năng của nông dân mình. Năm 2022, tôi sang Ấn Độ họp, đồng nghiệp tôi đánh giá cao nông dân Việt Nam với kỹ năng ấn tượng lắm; học cấp 1, 2 thôi mà biết điều khiển máy bay tự động, chế máy suốt lúa, máy gặt, máy cày… Kỹ năng đó không phải nông dân quốc gia nào cũng có. Không những tiếp thu cái mới rất nhanh, mà còn sáng tạo. Máy suốt lúa, máy sạ hàng, máy gặt lúa liên hợp được chế lại một cách hiệu quả. Người đồng bằng sống hòa hợp với nhau, không xét nét nghèo giàu, ai cũng có thể kiếm ra tiền nếu siêng năng. Quan hệ không dựa nhiều vào gia tộc như ở đàng Ngoài mà lấy bạn bè tâm giao làm gốc.

Bìa 3 tập sách “Đi và học”. Ảnh: H.Kim

KTSG: Vì sao những chuyện kể trong ba tập sách này, ngoài yếu tố chuyên môn về cây lúa lại bàn bạc tính văn học với rất nhiều ca dao, tục ngữ? Rồi ở một số tỉnh thành, người đọc như được lạc vào những ký sự du lịch?

– Từ nhỏ, tôi đã nghe ba tôi kể chuyện văn thơ của cụ Nguyễn Du, cụ Đồ Chiểu, của bà Hồ Xuân Hương, rồi những câu chuyện của Nguyễn Trãi – Thị Lộ. Còn mẹ tôi thì dù không đi học, bà vẫn thuộc lòng cả Chinh Phụ ngâm khúc. Nên tôi đam mê văn học mặc dù hồi nhỏ chuyên ngành của tôi là toán và sinh học.

Cho nên khi mình đi thì những ký ức đó nó bật dậy. Ngoài văn học bác học còn có nền văn học dân gian, tức ca dao tục ngữ, rất sâu lắng. Bên cạnh đó là chuyện kể dân gian truyền khẩu. Ở Tây Nguyên, Trung bộ và Tây Bắc có quá nhiều chuyện hay. Tối mình uống vài ba cốc rượu với mấy ông già làng rồi ổng kể chuyện cho mình nghe. Còn về ĐBSCL thì khỏi phải nói, chuyện Nam bộ đa dạng lắm! Tôi ghi lại hết và tôi lưu trữ rất tốt nên tài liệu còn đủ, khi viết sách thì cũng gặp thuận lợi.

Còn ý nói về du lịch là đúng. Sang Thái Lan, tôi thấy họ làm du lịch giỏi hơn mình dù phong cảnh Thái Lan không hơn cảnh đẹp ở ĐBSCL, Quảng Bình và nhiều nơi khác của Việt Nam. Như ở Cao Bằng có thành nhà Mạc, nhìn vào đó mình nhớ về lịch sử, lại có một cái thế núi hình cánh cung với những con sông đổ về tạo nên một phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Bờ biển miền Trung dài, đẹp vô cùng. Hay như mỗi lần đi thăm hoàng thành Huế thì tôi lại như cảm nhận còn có điều bí ẩn trong dòng lịch sử, và hiểu rằng nhà Nguyễn giỏi thật. Cho nên nhìn vào lịch sử không nên nhìn một chiều, thành kiến. Mà lịch sử đòi hỏi chúng ta phải biết nhìn người xưa, đối xử công bằng với tổ tiên của mình. Công tội đầy vơi mà! Đó là những câu chuyện mà người làm du lịch nên làm. Phần mình, tôi đã lồng ghép tất cả vào các bài ký sự trong sách.

KTSG: Viết một bộ sách bằng tâm huyết cả đời mình, ông muốn gửi gắm gì nơi người trẻ?

– Tôi muốn nhắn nhủ với các bạn trẻ là làm nông nghiệp không chỉ nên ở trong tháp ngà của phòng thí nghiệm. Mà hãy đi nhiều trên ruộng, tiếp cận với nông dân. Học được nhiều lắm. Kiểm nghiệm lại lý thuyết nhiều lắm! Làm nông nghiệp phải có hai điều, có kiến thức chuyên môn sâu và có thực tế.

Và phải hiểu rằng hạt gạo mình ăn, không chỉ là vấn đề an ninh lương thực. Lúa mình ăn còn là văn hóa, truyền thống dân tộc nữa. Ăn cơm là văn hóa. Nên câu hỏi “Mày ăn cơm chưa?” còn hàm ý một lời hỏi thăm đậm chất văn hóa miền lúa nước rằng “Mày khỏe không?”.

Suy cho cùng chúng ta đang vừa sống, vừa tìm cách giải thích thế giới này để “sống sao cho có ý nghĩa”. Trong sách, ý tưởng xuyên suốt là cuộc đời không có đích đến, chỉ có cuộc hành trình luôn tiếp diễn.

Đời là một cuộc hành trình!

– Sinh năm 1953 tại Hồng Ngự, Đồng Tháp.

– Năm 1955: tản cư sống tại Tây Ninh, học Đại học Nông nghiệp Sài Gòn.

– Năm 1977: tốt nghiệp kỹ sư nông nghiệp về công tác tại Viện Lúa ĐBSCL.

– Năm 1988: Tiến sĩ nông học tại Ấn Độ chuyên ngành Di truyền và Chọn giống lúa.

– Trở thành Phó giáo sư năm 1996, Giáo sư năm 2004.

– Năm 1996-1997: thực tập sinh cao cấp tại Texas A&M University, Mỹ.

– Năm 1988 Phó Viện trưởng, 2011 Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL.

– Năm 2011: Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật nông nghiệp miền Nam.

– Hiện sống (nghỉ hưu) tại Cần Thơ.

Sách đã xuất bản:

– Ứng dụng công nghệ sinh học trong cải tiến giống lúa (NXB Nông Nghiệp, 1995)

– Giáo trình di truyền phân tử (NXB Nông Nghiệp, 1999, 2000, 2004, 2008)

– Giáo trình di truyền số lượng (NXB Nông nghiệp, 2003)

– Giáo trình chọn giống cây trồng (NXB Nông nghiệp, 2007)

– Khoa học về cây lúa (NXB Nông nghiệp, 2011)

– Công nghệ di truyền (NXB Nông nghiệp, 2012)

– Khoa học về cây sắn (NXB Nông nghiệp, 2020)

– Đi và học tập 1, 2, 3 (NXB Nông nghiệp).

Huỳnh Kim thực hiện

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/doi-la-mot-cuoc-hanh-trinh/