VKSND cấp cao tại Đà Nẵng thông báo rút kinh nghiệm vụ án Tranh chấp quyền sử dụng đất

VKSND cấp cao tại Đà Nẵng vừa ra thông báo rút kinh nghiệm vụ án 'Tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy quyết định cá biệt' bị TAND cấp cao tại Đà Nẵng hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại

Theo nội dung vụ án, nguyên đơn bà Phan Thị C. khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Thị G. trả lại 578,2m² tại huyện N., tỉnh Q. Yêu cầu hủy một phần Giấy CNQSD đất cấp cho hộ bà Phan Thị C. đối với thửa đất có diện tích 1.040m². Hủy một phần Giấy CNQSD đất cấp các bà Nguyễn Thị G. đối với thửa đất diện tích 2.400m².

Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2023/DS-ST ngày 23/02/2023 của TAND tỉnh Q., quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phan Thị C. về việc: "Tranh chấp quyền sử dụng đất và hủy quyết định cả biệt" với bị đơn bà Nguyễn Thị G. Hủy một phần Giấy CNQSD đất do UBND huyện N. cấp cho bà Nguyễn Thị G. ngày 26/12/1993 đối với thửa đất 175a, tờ bản đồ số 26, diện tích 2.400m².

Hủy một phần Giấy CNQSD đất do UBND huyện N. cấp cho hộ bà Phan Thị C. ngày 26/12/1996 đối với thửa đất 175b, tờ bản đồ số 26, diện tích 1.040m². Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị C. về việc buộc bà Nguyễn Thị G. trả lại cho bà Phan Thị C. diện tích 578,2m đất tranh chấp thuộc thửa đất 175a, tờ bản đồ số 26. Tuyên chi phí xem xét, thẩm định, định giá tài sản và đo vẽ phần đất tranh chấp bà Nguyễn Thị G. phải hoàn trả cho bà Phan Thị C. là 7,5 triệu đồng.

Tháng 10/2023, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm thông qua 11 Quyết định Giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao trong lĩnh vực án dân sự.

Ngày 6/3/2023, bị đơn bà Nguyễn Thị G. kháng cáo bản án sơ thẩm. Ngày 26/3/2023, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 04/QĐVKS-DS theo hướng hủy Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Q. giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 165/2023/DS-PT ngày 18/7/2023 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị G. Chấp nhận kháng nghị của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng. Thông qua công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án dân sự, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ra thông báo rút kinh nghiệm đối với vụ án nói trên.

Theo Thông báo rút kinh nghiệm, ngày 26/12/1996, UBND huyện N. cấp Giấy CNQSD đất cho hộ bà Nguyễn Thị G. và hộ bà Phan Thị C. tại các thửa đất đã kê khai đăng ký nêu trên. Hộ bà Nguyễn Thị G. (ông Phan Văn Â.) sử dụng một phần thửa đất số 175a và một phần thửa đất số 175b, tờ bản đồ số 26 để xây dựng nhà ở và sản xuất nông nghiệp. Hộ bà Phan Thị C. (ông Lê Bá S.) sử dụng một phần thửa đất số 175a và một phần thừa đất số 175b để trồng keo.

Theo trích do bản đồ địa chính ngày 2/4/2022, diện tích 578,2m² đất tranh chấp nằm trong thửa đất số 175a, tờ bản đồ số 26, diện tích 2.400m² được UBND huyện N. cấp Giấy CNQSD đất cho bà Nguyễn Thị G. ngày 26/12/1996. Tại Công văn số 324/UBND-TNMT ngày 27/3/2020, UBND huyện N. đã xác nhận: Theo số mục kê đất đai lập theo Nghị định 64/CP, thửa đất số 175a, tờ bản đồ số 26, diện tích 2.400m², loại đất thổ cư do bà Nguyễn Thị G. kê khai, đăng ký đứng tên; bà Phan Thị C. kê khai, đăng ký đứng tên tại thửa đất số 175b, tờ bản đồ số 26, diện tích 1.040m², loại đất thổ cư, đến ngày 26/12/1996, UBND huyện N. cấp Giấy CNQSD đất cho hộ bà Nguyễn Thị G. và hộ bà Phan Thị C. tại các thửa đất đã kê khai đăng ký nêu trên.

Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng đất, 2 hộ gia đình không sử dụng đất theo ranh giới, diện tích của Giấy CNQSD đất đã cấp. Theo trích đo bản đồ địa chính số 01-2022 Văn phòng đăng ký pđất đai tỉnh Q. đo vẽ ngày 2/4/2022, diện tích 578,2m² đất tranh chấp nằm trong thửa đất số 175a, tờ bản đồ số 26, diện tích 2.400m được UBND huyện N. cấp Giấy CNQSD đất cho bà Nguyễn Thị G. ngày 26/12/1996.

Nguyên đơn bà Phan Thị C. khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Thị G. trả lại diện tích 578,2m2 đất thuộc thửa đất 175a, tờ bản đồ số 26; yêu cầu hủy một phần Giấy CNQSD đất do UBND huyện N. cấp cho hộ bà Phan Thị C. ngày 26/12/1996 đối với thửa đất 175b và hủy một phần Giấy CNQSD đất do UBND huyện N. cấp cho bà Nguyễn Thị G. ngày 26/12/1993 đổi với thửa đất 175a.

Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy quyết định cá biệt là đúng quy định tại khoản 5 Điều 26 và Điều 34 BLTTDS. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn rút yêu cầu về việc buộc bà Nguyễn Thị G. trả lại diện tích 578,2m² đất tranh chấp thuộc thửa đất 175a, tờ bản đồ số 26 và Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 2 Điều 244 BLTTDS, đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 34 BLTTDS, khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết. Trong vụ án dân sự, việc hủy quyết định cá biệt trái pháp luật là hệ quả của việc giải quyết tranh chấp về dân sự và là quyền của Tòa án, không phụ thuộc vào việc đương sự có yêu cầu. Việc xác định quyết định cá biệt là trái pháp luật phải căn cứ vào việc giải quyết tranh chấp về dân sự.

Trong vụ án này, nguyên đơn rút yêu cầu về việc buộc bà Nguyễn Thị G. trả lại diện tích 578,2m2 đất tranh chấp thuộc thửa đất 175a. Như vậy, các bên không còn tranh chấp về dân sự nên việc Tòa án cấp sơ thẩm hủy quyết định cá biệt không xuất phát từ việc giải quyết tranh chấp về dân sự là không đúng quy định tại khoản 1 Điều 34 BLTTDS.

Về thu thập chứng cứ: Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác định, đo vẽ diện tích cụ thể thửa đất số 175a, tờ bản đồ số 26 của bà Nguyễn Thị G. và thửa đất số 175b, tờ bản đồ số 26 của bà Phan Thị C. đang quản lý sử dụng theo hiện trạng thực tế so với diện tích đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn giải quyết vụ án dân sự trong khi đã đình chỉ xét xử đối với yêu cầu dân sự và tuyên hủy một phần đối với hai Giấy CNQSD đất là không đúng pháp luật, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; buộc bả Nguyễn Thị G. phải trả cho bà Phan Thị C. chi phí xem xét, thẩm định, định giá tài sản và đo về phần đất tranh chấp 7,5 triệu đồng là vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 157 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã rút yêu cầu tranh chấp quyền sử dụng đất thì nguyên đơn phải chịu chi phí xem xét, thẩm định, định giá tài sản.

VKSND cấp cao tại Đà Nẵng thông báo để VKSND các tỉnh, thành phố trong khu vực nghiên cứu rút kinh nghiệm, nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự.

Xuân Nha

Nguồn BVPL: https://baovephapluat.vn/vien-kiem-sat-khang-nghi-kien-nghi/vksnd-cap-cao-tai-da-nang-thong-bao-rut-kinh-nghiem-vu-an-tranh-chap-quyen-su-dung-dat-149341.html