Việt Nam nguy cơ phụ thuộc nguồn năng lượng nhập khẩu

Nguồn năng lượng truyền thống đang dần cạn kiệt trong khi tiêu thụ năng lượng của Việt Nam rất cao. Theo cảnh báo của các chuyên gia, nếu không sớm chuyển dịch và sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (SDNLTK&HQ), tương lai Việt Nam sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn cung và giá năng lượng của thế giới.

Quang cảnh Hội thảo

Tiêu thụ tăng, nguồn tài nguyên cạn kiệt

Thông tin tại Diễn đàn “Triển vọng ngành năng lượng Việt Nam” do Báo điện tử VOV tổ chức sáng 12/10, TS Chử Đức Hoàng - Chánh văn phòng Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia (Bộ KH&CN) cho biết, thế giới chỉ còn 70 - 100 năm để sử dụng 3 loại năng lượng truyền thống. Cụ thể với than đá, tiêu thụ mỗi năm bình quân là 7.320 triệu tấn, trong khi dự trữ than đá ước tính là 891.500 triệu tấn. Dầu mỏ mỗi năm tiêu thụ 35 tỉ thùng, trong khi dự trữ dầu mỏ trên thế giới là 1.480 tỉ thùng. Khí đốt mỗi năm tiêu thụ khoảng 4.000 tỷ m3 trong khi dự trữ khí đốt toàn cầu là 187.100 tỷ m3.

“Riêng với Việt Nam, với mức độ sử dụng như hiện nay cũng chỉ 70- 80 năm nữa các loại năng lượng truyền thống cũng cạn kiệt”, TS Hoàng cảnh báo.

Trong khi đó, theo báo cáo của Vụ Tiết kiệm năng lượng (TKNL) và Phát triển bền vững (PTBV), Bộ Công Thương, nhu cầu năng lượng trong nước tăng khoảng 10% trong giai đoạn 2001 - 2010, khoảng 7% trong giai đoạn 2011 - 2019 trong khi nhu cầu về điện tăng 13%/năm trong giai đoạn 2001 - 2010 và khoảng 9,71% trong giai đoạn 2011 - 2021.

Trong “bản đồ” tiêu thụ năng lượng tại Việt Nam, đối tượng tiêu thụ nhiều nhất là công nghiệp. Đáng ngại, tỷ lệ này đang có xu hướng gia tăng, chiếm từ 45,7% năm 2012 lên 54% năm 2021.

Ông Hoàng Việt Dũng (Vụ TKNL và PTBV) thông tin, cường độ sử dụng năng lượng của Việt Nam đang cao hơn nhiều nước trên thế giới (cao gấp 3 lần so với Nhật Bản, Singapore…)

“Trong tương lai, các nguồn năng lượng sơ cấp sẽ không đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ năng lượng của nền kinh tế, Việt Nam sẽ phải nhập khẩu năng lượng sơ cấp”, ông Dũng dự báo.

TS Chử Đức Hoàng lo ngại, trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ năng lượng rất cao và việc phụ thuộc vào một số ít quốc gia sản xuất dầu mỏ, than đá và khí tự nhiên có thể tạo ra những rủi ro về an ninh năng lượng, nhất là khi xảy ra xung đột chính trị hoặc kinh tế.

Cột màu xanh dương biểu thị lượng nhập khẩu, cột màu đỏ biểu thị lượng xuất khẩu năng lượng

Số liệu của Vụ TKNL & PTBV cũng cho thấy, trong giai đoạn 2016- 2021, chênh giữa nhập khẩu và xuất khẩu năng lượng của Việt Nam đang có xu hướng tăng. Nếu như năm 2016, chênh lệch chỉ là 16,4 % thì đến năm 2020 là 49,7%, đến năm 2021 có giảm chút ít, còn chênh lệch 35,8%.

Tiết kiệm vẫn là quốc sách

Bên cạnh đề xuất các giải pháp chuyển dịch sang sử dụng hệ thống năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, đặc biệt tháo gỡ khó khăn vướng mắc về cơ chế chính sách, nhiều ý kiến nhấn mạnh đến câu chuyện SDNLTK&HQ.

Ông Đỗ Văn Năm – Thành viên Hội đồng thành viên Tổng công ty Điện lực miền Bắc (EVNNPC) chia sẻ: “Để góp phần đảm bảo an ninh năng lượng, qua thực hiện EVNNPC nhận thấy mặc dù đã có Luật SDTKNL&HQ, nhiều DN và người dân đã có ý thức trong việc thay đổi công nghệ tiên tiến, tiêu thụ năng lượng thấp, sử dụng điện tiết kiệm nhưng cũng còn rất nhiều DN do ý thức về tiết kiệm điện, do khó khăn về nguồn vốn để thay đổi công nghệ mới…, nên việc sử dụng điện vẫn còn nhiều bất cập, lãng phí”.

Ông Năm cho biết, trên địa bàn miền Bắc có nhiều phụ tải tiêu thụ điện lớn như: Sản xuất thép, ximăng, vật liệu xây dựng, luyện quặng…. nhưng vẫn sử dụng công nghệ cũ, tiêu tốn năng lượng và chưa thân thiện với môi trường. “Đáng ngại là khi kiểm toán năng lượng, nhiều đơn vị chỉ quan tâm đến hệ thống hoạt động ổn định và an toàn, không quan tâm đến việc tiết kiệm điện mặc dù hoàn toàn có thể cải thiện hệ thống để tiết kiệm điện…”, đại diện EVNNPC nói thêm.

Sử dụng nguồn sáng tự nhiên trong nhà máy

"Đổi mới công nghệ là xu hướng tất yếu để các quốc gia, tập đoàn, DN chuyển đổi từ năng lượng truyền thống sang năng lượng sạch, bao gồm năng lượng tái tạo (điện mặt trời, điện gió) và thủy điện. Đây là giải pháp bền vững, không gây hại cho môi trường và tái tạo được", TS Chử Đức Hoàng (Bộ KH&CN) quả quyết.

Chuyên gia này cũng cho rằng, dù có TKNL thì vấn đề đổi mới công nghệ vẫn là cốt yếu.

Nhấn mạnh nhu cầu năng lượng tăng cao gây sức ép lên kết cấu hạ tầng ngành năng lượng, đòi hỏi vốn đầu tư lớn, nguy cơ thiếu điện vẫn hiện hữu nếu không có các giải pháp hữu hiệu và kịp thời, ông Vương Quốc Thắng, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cũng đặc biệt nhấn mạnh giải pháp SDTKNL&HQ và khẳng định tiềm năng TKNL vẫn còn rất lớn trong các DN.

“Chúng ta đã có Luật SDNLTK&HQ, vấn đề là làm sao các chính sách này phải đi được vào cuộc sống cùng với việc có những chế tài. Bên cạnh đó, làm thế nào để thúc đẩy cả hệ thống chính trị cùng tham gia TKNL?", Chuyên gia kinh tế, TS Vũ Trí Thành trăn trở…

Thanh Lan

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/viet-nam-nguy-co-phu-thuoc-nguon-nang-luong-nhap-khau-post491600.html