Top 3 bài phân tích tác phẩm Lai Tân của Hồ Chí Minh hay nhất - Ngữ văn 11

Bài văn mẫu lớp 11: Phân tích tác phẩm Lai Tân của Hồ Chí Minh bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn ngữ văn 11.

Mục lục

I. Tìm hiểu chung về tác phẩm Lai Tân của Hồ Chí Minh
1. Tác giả Hồ Chí Minh
a. Tiểu sử
b. Sự nghiệp văn học
2. Tác phẩm Lai Tân
a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
b. Thể thơ và phương thức biểu đạt
c. Bố cục
d. Giá trị nội dung
e. Giá trị nghệ thuật
g. Tóm tắt
II. Dàn ý chung phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh
A. Mở bài
B. Thân bài
1. Ba câu thơ đầu
2. Câu thơ cuối
C. Kết bài
III. Viết đoạn văn ngắn phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh
1. Viết đoạn văn ngắn làm rõ chất trào phúng của bài Lai Tân (Hồ Chí Minh)
2. Nghệ thuật đả kích của nhà thơ Hồ Chí Minh thể hiện trong bài thơ Lai Tân
IV. Danh sách đề thi phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh
1. Cảm nhận bài thơ Lai Tân trích Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh
2. Bình giảng bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh.
3. Phân tích bài thơ “Lai Tân” trong “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh

I. Tìm hiểu chung về tác phẩm Lai Tân của Hồ Chí Minh

1. Tác giả Hồ Chí Minh

a. Tiểu sử

- Hồ Chí Minh (19/05/1889 – 02/09/1969) tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, là nhà cách mạng, lãnh tụ của Việt Nam, nhà văn, nhà thơ, nhà văn hóa lớn.

- Quê quán: Kim Liên – Nam Đàn – Nghệ An.

- Là một người thông minh ham học hỏi và có lòng yêu nước thương dân sâu sắc, tìm ra con đường giải phóng dân tộc, lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến chống Pháp và Mĩ.

Là vị lãnh tụ tài ba, vĩ đại, danh nhân văn hóa thế giới.

b. Sự nghiệp văn học

- Quan điểm sáng tác:

+ Coi văn học là một vũ khí chiến đấu phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.

+ Luôn chú trọng tính chân thực và tính dân tộc.

+ Luôn chú ý đến mục đích và đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung và hình thức của tác phẩm.

- Tác phẩm văn học:

+ Văn chính luận: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Tuyên ngôn độc lập(1945), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Không có gì quý hơn độc lập tự do (1966)…

+ Truyện và kí:Pari (1922), Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922), Con người biết mùi hun khói (1922), Vi hành (1923), Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925), Nhật kí chìm tàu(1931), Vừa đi đường vừa kể chuyện (1963)…

+ Thơ ca: Nhật kí trong tù (viết trong thời gian bị giam cầm trong nhà lao Tưởng Giới Thạch từ 1942 – 1943), chùm thơ viết ở Việt Bắc từ 1941 – 1945.

Di sản văn học lớn lao về tầm vóc, phong phú về thể loại và đa dạng về phong cách.

- Phong cách nghệ thuật:

+ Thống nhất về cả mục đích, quan điểm và nguyên tắc sáng tác.

+ Đa dạng, trong mỗi thể loại Hồ Chí Minh lại có một cách viết khác nhau.

2. Tác phẩm Lai Tân

a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

- Là bài thơ thứ 97, trích Nhật kí trong tù Hồ Chí Minh

- Bài thơ được sáng tác trong khoảng bốn tháng đầu của thời gian HCM bị giam giữ tại các nhà tù của bọn Quốc dân đảng Trung Quốc ở Quảng Tây.

b. Thể thơ và phương thức biểu đạt

- Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.

- Phương thức biểu đạt: Biểu cảm

c. Bố cục

- Phần 1 (3 câu đầu): Hiện thực xã hội Lai Tân.

- Phần 2 (Câu cuối): Bình luận của tác giả.

d. Giá trị nội dung

Bài thơ miêu tả thực trạng thối nát của chính quyền Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch và thái độ châm biếm, mỉa mai sâu cay

e. Giá trị nghệ thuật

- Ngòi bút miêu tả giản dị, chân thực.

- Lối viết mỉa mai sâu cay.

- Bút pháp trào phúng.

g. Tóm tắt

Bài thơ miêu tả cảnh tượng nhà lao nơi Bác bị giam cầm ở Trung Quốc. Ban trưởng nhà lao chuyên tổ chức đánh bạc, cảnh sát trưởng kiếm ăn, thu tiền từ việc giải người, ăn hối lộ, huyện trưởng thì hút thuốc phiện. Đó là toàn bộ thực trạng đen tối nơi nhà lao, nơi thực thi pháp luật nhưng lại toàn là tệ nạn xã hội. Thế nhưng trời đất Lai Tân vẫn thái bình, tức chính quyền Tưởng Giới Thạch vẫn làm ngơ trước bức tranh nhà tù đó.

Bài văn mẫu nghị luận xã hội về lòng yêu nước hay nhất

3 bài phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương - Phan Bội Châu - Văn mẫu lớp 11 hay nhất

5 Bài phân tích tác phẩm Hầu trời cực hay của tác giả Tản Đà - Văn mẫu lớp 11

II. Dàn ý chung phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh

A. Mở bài

Một nội dung của tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh là ghi chép những điều tai nghe mắt thấy hàng ngày của tác giả trong nhà tù và trên đường chuyển lao, đem đến cho nhiều bài thơ tính hướng ngoại và yếu tố tự sự, tả thực. Nhờ thế, tác phẩm đã tái hiện được bộ mặt đen tối của nhà tù Quốc dân đảng Trung Quốc rất tỉ mi, chi tiết như một cuốn phim tư liệu có sức phê phán mạnh mẽ. Tập thơ còn cho thấy một phần của tình trạng xã hội Trung Quốc vào những năm 40 của thế kỉ XX. Bài thơ Lai Tân là một trong những bài thơ trong tập thơ có nội dung hiện thực như vậy.

Lai Tân là nơi mà Hồ Chí Minh đã trải qua trên con đường từ Thiên Giang đến Liễu Châu thuộc tĩnh Quảng Tây. Bài thơ mang tên dịa danh này là bài thơ thứ 97 trong số 134 bài thơ của tập Nhật kí trong tù, nó cho thấy hiện trạng đen tối, thối nát của một xã hội tưởng là yên ấm, tốt đẹp.

B. Thân bài

1. Ba câu thơ đầu

- Sử dụng kiểu câu tự sự, với giọng điệu kể khách quan, không hề có sự bình luận hay bộc lộ thái độ của tác giả.

- Ba câu thơ đầu tác giả nói đến ba đối tượng khác nhau trong hệ thống quan lại Trung Quốc, cụ thể trong bối cảnh nhà giam Lai Tân thời điểm bấy giờ.

+ Câu 1: Ban trưởng nhà lao: chuyên đánh bạc.

• Con người thực thi của pháp luật nhà tù, cai quản tù nhân, thế mà lại là một người ham đánh bac.

• Hai chữ “thiên thiên” cho thấy sự việc, hành động diễn ra một cách thường xuyên, ngày này qua ngày khác, đều đặn như một thói quen, như một lẽ hiển nhiên

=> Dưới ngòi bút của Hồ Chí Minh, nhà tù Tưởng Giới Thạch không phải là nơi giam giữ và cải tạo tù nhân mà là một sòng bạc với những con bạc lại là những người thực thi pháp luật. Hình ảnh nhà tù bên ngoài thì nghiêm minh nhưng bên trong thì giả dối, bất công, phi lí.

+ Câu 2: Cảnh trưởng tham lam ăn tiền của phạm nhân.

• Hành động cảnh trưởng là hành động của một tên ăn cướp, hành động của một tên trấn lột, ăn chặn bẩn thỉu và tàn nhẫn. Cái nực cười mỉa mai nhất là hành động này lại diễn ra ở chốn ngục tù, giữa cảnh trưởng và tù nhân. Tù nhân thì làm gì có tiền thế mà chúng cũng chẳng tha

• Thái độ của tác giả khi phản ánh thực trạng này rất thẳng thắn, dứt khoát, trực diện. Điều đó thể hiện qua hai chữ “tham thôn” được sử dụng với đúng nghĩa của nó.

=> Hành động của cảnh trưởng đã nói hết sự thối nát, đê tiện của nhà tù dưới thời Tưởng Giới Thạch.

+ Câu 3: Nói về việc làm của huyện trưởng. Câu này có nhiều cách hiểu.

• Huyện trưởng chong đèn làm việc công; rất có thể là viên quan mẫn cán nhưng quan liêu, bằng chứng là dung túng cho bộ hạ (ban trưởng, cảnh trưởng) làm điều sằng bậy.

• Thực chất huyện trưởng chong đèn là để hút thuốc phiện.

=> Nếu hai câu trên tác giả vạch trần bộ mặt bọn quan lại một cách trực diện thì ở câu này, Người lại sử dụng nghệ thuật châm biếm sắc sảo, sâu cay.

=> Tóm lại chỉ qua ba câu thơ Hồ Chí Minh đã khái quát được sự thối nát của bộ máy chính quyền nơi đây. Các bộ máy chính quyền ấy chính là bộ mặt của xã hội Trung hoa dưới thời giặc Tưởng. Ở xã hội ấy, sự phi lý chồng chất, sự bất công chồng chất, sự thối nát chồng chất, nó diễn ra ở mọi chỗ, mọi việc, mọi lúc.

2. Câu thơ cuối

- Câu thơ cuối không đi theo mạch logic cua ba câu thơ trên. Câu cuối có thể hiểu “trời đất Lai Tân vẫn thái bình như cũ”. Thoạt nhìn tưởng như câu thơ thể hiện một sự hài lòng, một lời ca ngợi. Nhưng thực chất là sự mỉa mai, châm biếm của tác giả.

- Thái bình mà tác giả muốn ám chỉ ở đây là:

+ Thái bình đối với bọn quan lại thối nát, đê tiện, nhiễu nhương, bởi bọn chúng vẫn ngày ngày được đánh bạc, dược ăn hối lộ và hút thuốc phiện, không cần quan tâm dân tình ra sao. Điều đó càng khắc sâu thêm tình trạng thối nát đã trở thành một “nề nếp” diễn ra thường xuyên, bình ổn trong bộ máy chính quyền Lai Tân.

+ Bài thơ được viết cuối năm 1942 là lúc cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đang ở thời kì ác liệt, phát xít Nhật xâm lược Trung Quốc, biết bao biến động, biết bao tang thương, vậy mà bọn người này vẫn bình chân, vẫn cứ thấy Lai Tân thái bình. Điều đó có cho thấy sự tàn ác, nhẫn tâm của tầng lớp quan lại Trung Quốc.

- Hai chữ “thái bình” được xem là nhãn tự của bài thơ, Hoàng Trung Thông nhận xét: “Hai chữ thái bình mà xâu tóm lại bao nhiêu việc làm trên là muôn thuở của xã hội Trung Quốc, của giai cấp bóc lột thống trị. Chỉ hai chữ ấy mà xé toang tất cả mọi thái bình trá nhưng thực chất là đại loạn ở bên trong”.

=> Với giọng thơ có vẻ bình thản vô cảm nhưng kì thực là mỉa mai, đả kích mạnh mẽ, Hồ Chí Minh đã tố cáo sự thối nát của bộ máy chính quyền đã đến mức trầm trọng, trở thành phổ biến, trở thành nếp sống trên đất nước Trung Hoa.

C. Kết bài

Tất cả những điều đó đã trở thành công việc hàng ngày trở thành nề nếp ở đây. Mặt khác bài thơ này ra đời năm 1942, lúc ấy phát xít Nhật đang xâm chiếm Trung Quốc, nhân dân đang chiến đấu hi sinh vì vận mệnh đất nước Trung Quốc đang lâm nguy. Vậy mà bọn quan lại ở đây vẫn ung dung, dửng dưng mặc kệ sự đời mà ra sức vơ vét cho cá nhân, ta càng thấy rõ sự thối nát vô trách nhiệm trước nhân dân, Tổ quốc, của bộ phận quan lại chế độ này. Lai Tân là một bài thơ châm biếm thể hiện rất rõ cốt cách thơ trào phúng của Hồ Chính Minh. Không đao to búa lớn, không chỉ trích gay gắt, cứ nhẹ nhàng mà hiệu quả lại rất cao. Bài thơ cũng thể hiện tài sử dụng ngôn ngữ rất tinh tế, nhẹ mà sâu của tác giả trong bối cảnh lao tù.

Phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí minh

III. Viết đoạn văn ngắn phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh

1. Viết đoạn văn ngắn làm rõ chất trào phúng của bài Lai Tân (Hồ Chí Minh)

Lai Tân của Hồ Chí Minh là một bài thơ trào phúng. Nhà thơ đã tố cáo hiện thực xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. Tôi đặc biệt ấn tượng với câu thơ kết “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”. Mới đọc lên tưởng chừng như đây là một lời khen, nhưng thực chất lại không phải. Câu thơ nhằm mỉa mai, phê phán xã hội Trung Quốc, bề ngoài thì có vẻ bình yên nhưng ẩn sâu bên trong là sự thối nát. Trước đó, tác giả đã khắc họa hình ảnh ba nhân vật gồm ban trưởng, cảnh trưởng và huyện trưởng. Họ đều là những người đại diện cho bộ máy chính quyền của đất nước phong kiến xưa, vốn phải làm những người tận tụy, sống nghiêm minh và làm việc phục vụ cho đất nước. Nhưng ở đây, người thì đánh bạc, người thì nhăm nhe hút máu tù nhân, người thì “chong đèn” thâu đêm để chìm đắm trong thuốc phiện. Quả là đáng buồn cho hiện thực xã hội đất nước Trung Quốc bấy giờ.

2. Nghệ thuật đả kích của nhà thơ Hồ Chí Minh thể hiện trong bài thơ Lai Tân

Vào tháng 8 năm 1942, với danh nghĩa là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh hội và Phân bộ quốc tế phản xâm lược của Việt Nam, Bác Hồ sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của thế giới. Sau nửa tháng đi bộ vừa đến Túc Vinh, tỉnh Quảng Tây, Bác đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ. Trong hơn 13 tháng đầy ải vô cùng cực khổ qua nhiều nhà lao ở Quảng Tây, tận dụng thời gian nhàn rỗi bất đắc dĩ ấy, Bác đã sáng tác được 134 bài thơ góp thành tập "Nhật ký trong tù". Trong tập thơ, có nhiều bài Bác ghi chép lại cuộc sống khắc nghiệt trong các nhà tù và một phần xã hội Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch với tinh thần phê phán sâu sắc. "Lai Tân" là một bài thơ được Bác vận dụng thành công nhiều thủ pháp nghệ thuật đả kích độc đáo, toát lên tinh thần phê phán mạnh mẽ.

Lai Tân là địa danh Bác Hồ từng trải qua trên con đường lưu đày từ Thiên Giang đến Liễu Châu thuộc tỉnh Quảng Tây. Bài thơ mang tên địa danh mĩ cảm này lại cho thấy hiện trạng đen tối, thối nát của một xã hội ngỡ là tốt đẹp, tiến bộ. Nhan đề Lai Tân còn có thể hiểu là "lại mới" đã ngụ ý mỉa mai thâm trầm của nhà thơ Hồ Chí Minh.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, nhưng lại có kết cấu gồm hai phần không cân xứng. Phần đầu gồm ba dòng tự sự nói về hành vi thường thấy của ba viên quan đại diện cho bộ máy hành pháp ở Lai Tân: Ban trưởng nhà lao ngày ngày đánh bạc, cảnh sát trưởng ăn tiền của phạm nhân, huyện trưởng thì đốt đèn làm việc công (tức là hút thuốc phiện - theo Đặng Thai Mai và Hoàng Trung Thông). Phần hai chỉ một câu đánh giá tình hình ở địa phương Lai Tân rằng: "Lai Tân y cựu thái bình thiên". (Trời đất Lai Tân vẫn thái bình).

Bài thơ ngắn gọn chỉ có 28 âm tiết ngỡ là đơn giản nhưng thực chất tác giả đã nén vào nhiều ý nghĩa sâu sắc có giá trị vạch trần chân tướng thối nát của bộ máy chính quyền ở Lai Tân thời bấy giờ. Trước hết là hình tượng ban trưởng nhà giam lại là một tên tội phạm cờ bạc, sao được giữ chức vụ quản giáo phạm nhân?! Trong khi đó dân chúng đánh bạc bị xem là phạm tội phải ở tù, như Bác Hồ từng mỉa mai:

"Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội

Trong tù đánh bạc được công khai

Bị tù con bạc ăn năn mãi

Sao trước không vô quách chốn này?"

(Nhật kí trong tù)

Hóa ra dưới chế độ Tưởng Giới Thạch, đạo đức, pháp luật chỉ là những chiêu bài bịp bợm lừa đảo nhân dân mà thôi.

Đến cấp cao hơn ban trưởng là cảnh sát trưởng và huyện trưởng đều là những tên tội phạm tham nhũng, hối lộ, nghiện ngập thuốc phiện lại đang nắm giữ cương vị, trách nhiệm là quản lý điều hành xã hội ở địa phương Lai Tân. Bác Hồ đã vận dụng biện pháp tu từ tăng cấp, liệt kê, từ quan nhỏ đến quan lớn đều là những tên thối nát vô trách nhiệm. Nhưng Bác lại không bật ra một lời lên án quyết liệt, mà lại hạ một câu kết có vẻ là bình thản, nhẹ nhàng: "Lai Tân y cựu thái bình thiên". Nhưng đấy mới chính là đòn đã kích bất ngờ, thâm trầm sâu sắc. Câu thơ được lồng vào hai vế đối, kết hợp với nghệ thuật lộng ngữ tài hoa. Đó là "Lai Tân" đối với "y cựu" ("lại mới" đối với "như cũ"). Nói "Lai Tân y cựu" là không có gì mới. Việc bọn quan lại vẫn đánh bạc, ăn tiền phạm nhân, hút thuốc phiện là chuyện thường ngày như một thói quen diễn ra thường xuyên của guồng máy cai trị ở Lai Tân. Vậy thì xã hội Lai Tân đã không mới, không tiến bộ mà chỉ có suy thoái, hỗn loạn hơn. Quả là một ý thơ mỉa mai chua chát!

Đặt bài thơ vào thời điểm ra đời của nó vào năm 1942, đối chiếu với đất nước Trung Quốc đang bị quân phát xít Nhật xâm lược, mà quan lại vẫn "bình chân như vại", vẫn cứ ung dung hưởng lạc thì quả là một điều đáng băn khoăn, nếu không muốn nói đó là những hành vi sai trái đáng bị phê phán mạnh mẽ.

Có lẽ cũng nên xét về cấu trúc ngữ pháp của câu "Lai Tân y cựu thái bình thiên". Đây là một câu ghép gồm hai cụm chủ vị "Lai Tân y cựu" và "thái bình thiên". Bản dịch đã chuyển câu thơ thành: "Trời đất Lai Tân vẫn thái bình", là đã gộp hai danh từ "trời" và "đất" Lai Tân thành đồng chủ ngữ, còn "vẫn thái bình" là vị ngữ, trở thành một câu đơn. Do vậy chưa thể hiện được phép đối và cách chơi chữ thâm trầm thể hiện trình độ nghệ thuật tài hoa của tác giả.

Bài thơ chốt lại bằng nhãn tự "thái bình" độc đáo mà theo Hoàng Trung Thông thì: Một chữ "thái bình" mà xâu táo lại bao nhiêu việc làm trên vốn là muôn thuở của xã hội Trung Quốc, của giai cấp bóc lột thống trị. Chỉ một chữ ấy mà xé toang tất cả sự "thái bình" dối trá nhưng thực sự là "đại loạn bên trong" (Bác Hồ làm thơ và thơ Bác).

"Lai Tân" đúng là một bài thơ chứa chất thép sắc bén, được nén vào trong những lời tự sự ngỡ như lời nói thường. Nhưng đọc kĩ, chúng ta mới thấy ra tác giả đã kết hợp nhuần nhuyễn những biện pháp nghệ thuật như chơi chữ, tăng cấp, đối, làm cho bài thơ lấp lánh nhiều ý nghĩa sâu sắc. Tác phẩm vừa là một bức tranh hiện thực điển hình cho lũ quan lại thối nát, vừa là một lời phê phán tố cáo có sức thuyết phục chế độ xã hội dưới thời Tưởng Giới Thạch; từ đó mà thăng hoa trình độ văn hóa, nghệ thuật uyên thâm của nhà thơ - chiến sĩ Hồ Chí Minh.

IV. Danh sách đề thi phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh

1. Cảm nhận bài thơ Lai Tân trích Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh

Một nôi dung của tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh là ghi chép những điều tai nghe mắt thấy hàng ngày của tác giả trong nhà tù và trên đường chuyển lao, đem đến cho nhiều bài thơ tính hướng ngoại và yếu tồ tự sự. tả thực. Nhờ thế, tác phẩm đã tái hiện được bộ mặt đen tối cúa nhà tù Quốc dân đảng Trung Quốc rất tỉ mỉ, chi tiết như một cuốn phim tư liệu có sức phê phán mạnh mẽ. Tập thơ còn cho thấy một phần của tình trạng xã hội Trung Quốc vào những năm 40 của thế kỉ XX. Bài thơ Lai Tân là một trong những bài thơ trong tập thơ có nội dung hiện thực như vậy.

Lai Tân là nơi mà Hồ Chí Minh đã trải qua trên con đường từ Thiên Giang đến Liễu Châu thuộc tỉnh Quảng Tây. Bài thơ mang tên địa danh này là bài thơ thứ 97 trong số 134 bài thơ của tập Nhật ký trong tù, nó cho thấy hiện trạng đen tối, thối nát của một xã hội tưởng là yên ấm, tốt đẹp.

Một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật thường có bốn phần, mỗi phần một câu có chức năng nhất định trong việc kết cấu và biểu đạt ý nghĩa của bài thơ. Bài thơ Lai Tân thuộc thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật nhưng có kết cấu khá đặc biệt. Tính chất đặc biệt này bắt nguồn từ dụng ý châm biếm của tác giả, đồng thời thể hiện tài năng của tác gia trong việc kết câu một bài thơ châm biếm theo thể thơ vốn rất trang trọng và nghiêm ngặt. Bài thơ chia làm hai phần rõ rệt, chứ không phải bốn phần như thế Đường luật. Phần đầu gồm ba câu đầu, viết theo lối tự sự. Phần hai chỉ có câu cuối mang tính chất biểu cảm. Phần tự sự kể lại việc Ban trưởng ngày ngày đánh bạc, Cảnh trưởng giải tù và bóc lột họ, Huyện trưởng đêm đêm chong đòn hút thuốc phiện. Phần biểu cảm là thái độ của nhà thơ trước những hiện thực được chứng kiến. Xét về kết câu, hai phần trên có liên hệ với nhau rất chặt chẽ và vững chắc. Nếu chỉ có một phần thì kết cấu sẽ bị phá vỡ, bài thơ không còn nhiều ý nghĩa, nhất là nếu mất di câu cuối thì sẽ mất ý nghĩa châm biếm, đả kích, mặc dù ba câu đầu đã thê hiện sự phê phán. Tính liên kết chặt chẽ trong kết câu đã làm nổi bật mâu thuẫn giữa sự bất an và thái bình, tạo nên tiếng cười chua cay trước hiện thực sống.

Bài thơ được viết vào giai đoạn đất nước Trung Quốc bị phát xít Nhật xâm lược, nhân dân Trung Quôc phải rên xiết dưới sự thông trị của ngoại bang và sâu mọt trong bộ máy quan lại chính quyền Tường Giới Thạch. Ba câu đầu trong bài thơ ghi lại hiện thực trong nhà tù. Đó là công việc thường ngày của ba viên quan lại tiêu biểu cho bộ máy chính quyền ờ Lai Tân. Ban trướng nhà giam thì ngày ngày đánh bạc, Cảnh trưởng bòn rút ngay cả của người tù, Huyện trường siêng năng đến độ phải chong đèn vào ban đêm để hút thuốc phiện. Đọc câu thơ cứ ngỡ là Huyện trưởng siêng năng đang làm việc vào ban đêm, nhưng đặt công việc vào hoàn cảnh chung của Ban trưởng và Cảnh trưởng thì rõ ràng Huyện trưởng đang làm công việc bất thường. Cảnh tượng hoàn toàn không bình thường đối với inột bộ máy quan lại của chính quyền nghiêm chỉnh.

Câu kết bài thơ lại tạo ra một nghịch lí: Trời đất Lai Tân vẫn thái bình. Câu thơ không có gì là bất thường cả, guồng máy cai trị ở Lai Tân xưa nay vẫn phân công việc một cách rành mạch: Ban trưởng đánh bạc, Cảnh trưởng hối lộ, Huyện trưởng hút thuốc phiện. Cả bộ máy là một sự yên ổn, thái bình. Sự thối nát của bộ máy chính quyền đã hết sức trầm trọng, cái xâu, cái vô kỉ cương đã trở thành phổ biến, thậm chí đã trở thành một nếp sóng thường ngày. Và đó chính là sự thái bình trong cuộc sống của quan lại Lai Tân. Bộ mặt quan lại nhà tù Lai Tân được Hồ Chí Minh khắc họa đầy đủ, rõ nét với chỉ bốn câu thơ. Không những thế, bài thơ còn phê phán tình trạng thôi nát phổ biến của bọn quan lại và xã hội Trung Quốc dưới thời cầm quyền của Quốc dân đảng.

mâu thuẫn và giọng điệu. Một trong những bút pháp để tạo ra tiếng cười trong nghệ thuật trào phúng là khai thác mâu thuẫn trái tự nhiên. ở đây, mâu thuẫn được tạo dựng bởi kết cấu bài thơ. Ba câu đầu kê về những việc bất bình thường theo lẽ thường. Lẽ ra với những gì trình bày trong ba câu trên, tác giả phải kết luận bằng một cầu phơi bày thực trạng xã hội, nhưng ngược lại, tác giả lại kết luận Trời đất Lai Tân vẫn thái binh, cái bất thường bổng chốc trở thành cái bình thường. Đó là tiếng cười được tạo ra một cách chua cay.

Để tiếng cười trở nên mạnh mẽ, sâu sắc và độc đáo, tác giả đã đưa ra tới ba hình tượng (Ban trưởng, Cảnh trưởng, Huyện trưởng) gắn liền với ba hiện tượng (đánh bạo, ăn hối lộ, hút thuốc phiện) và không dừng lại ờ đó, Hồ Chí Minh còn nâng sự việc lên tầm phổ quát và phổ biến bằng các từ lập lại như ngày ngày, đêm đêm, y nguyên như cũ... Những hiện tượng đó đủ để chúng ta kết luận xã hội Lai Tân đang rối loạn. Nhưng bất ngờ thay, tác giả lại kết luận là đang thái bình. Hóa ra, rối loạn hay thái bình không còn phụ thuộc ở hiện thực khách quan theo logic tự nhiên nữa mà phụ thuộc vào cách nhìn hiện thực khách quan dó. Nếu người khác nhìn thì cho đó là loạn nhưng với bộ máy quan lại Lai Tân thi cho đó là thái bình. Người đọc luôn cười nhưng lại là điệu cười chua chát vì sự thật đả bị bóp méo một cách trần trụi, lẽ thường cuộc sống đã bị chà đạp không thương tiếc.

Giọng điệu thơ chính là giọng điệu tâm hồn nhà thơ, nhà thơ không bao giờ tạo nên tiếng cười dễ dãi. Hồ Chí Minh chắt hẳn đã rất bất bình khi chứng kiến những cảnh tượng như thế. Vậy tại sao tác giả không dùng giọng điệu đanh thép, phẫn nộ mà có vẻ bình thản, nhẹ nhàng? Với bút pháp hiện thực, hơn nữa đây là hiện thực trào phúng nên tác giả đã giữ đúng thái độ khách quan nhằm mang lại giá trị phản ánh lớn nhất. Sự bình thản của Hồ Chí Minh cho ta cảm giác Người không có ý phê phán hoặc trào phúng gì cả. Tuy nhiên, với giọng thơ ấy, tác giả đã tạo ra sự đả kích mạnh mẽ, quyết liệt. Đó chính là nét độc đáo của bút pháp Hồ Chí Minh trong bài thơ.

2. Bình giảng bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh.

Bài thất ngôn tứ tuyệt “Lai Tân" là bài thơ số 97 trong số 133 bài thơ của “Ngục trung nhật kí" của Hồ Chí Minh. Bài thơ số 98 sau đó, với nhan đề "Đáo Liễu Châu", tác giả ghi rõ ngày viết là 9-12-1942, có câu: “Mồng chín ta vừa đến Liễu Châu – Ngoảnh lại hơn trăm ngày ác mộng...". Từ nhà lao Thiên Giang, Bác Hồ viết bài "Thiên Giang ngục" ngày 1-12-1942 (bài 94), rồi bị giải đi Lai Tân bằng tàu hỏa, được ngồi trên đống than, Bác hóm hỉnh viết: “Nhưng so với đi bộ còn sang chán!". Qua đó, ta biết bài thơ “Lai Tân" được Hồ Chí Minh viết vào tuần đầu của tháng 12-1942. Vì là "Nhật kí...” nên phải tìm hiểu cặn kẽ như thế!

“Lai Tân" là một bài thơ nhằm tố cáo cái hiện thực xấu xa, thối nát của xã hội Trung Quốc thời ấy hay chỉ là tiếng cười châm biếm của nhà thơ về những “con người" trong đám chức sắc ở Lai Tân mà nhà thơ nhìn thấy? Một câu hỏi rất thú vị được đặt ra.

Đây là bản dịch bài thơ của Nam Trân:

"Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc

Giải người, Cảnh trưởng kiếm ăn quanh

Chong đèn Huyện trưởng làm công việc

Trời đất Lai Tân vẫn thái bình."

Lai Tân là một huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Câu thơ thứ nhất nói về tên Ban trưởng - một tên cai ngục. Hắn không hung dữ, không quắt quay như những tên chúa ngục khác, mà chỉ "ngày ngày đánh bạc" (thiên thiên đổ). Hắn đã biến nhà tù thành một sòng bạc giữa thanh thiên bạch nhật. Nhà tù không phải là nơi cải tạo phạm nhân, không phải là nơi để thực thi luật pháp và công lí. Ban trưởng và tù nhân đều có vị thế như nhau: tất cả đều là con bạc, đều cùng hội đỏ đen, đang sát phạt lẫn nhau, cùng máu mê như nhau. Câu thơ chữ Hán nghĩa là: “Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc” được dịch thành “Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc" kể cũng hay, ở đây tiếng cười bật ra ở cái nghịch lí của sự vật, của con người, của hiện tượng mà nhà thơ nói đến, nhà thơ nhìn thấy, tiếng cười khẽ, thâm trầm, sâu sắc giàu trí tuệ.

Vì đã trải qua “hơn trăm ngày ác mộng", bị giải lui giải tới mấy chục nhà lao tỉnh Quảng Tây, Người đã nhìn thấy bao nghịch lí, nghịch cảnh của bức tranh tù ngục, "cái oái oăm của sự đời":

"Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội

Trong tù đánh bạc được công khai

Vào tù con bạc ăn năn mãi

Sai trước không vô quách trốn này?"

(Đánh bạc)

Mỗi bức tranh là một tiếng cười khẽ, châm biếm nhẹ nhàng mà thâm thúy, bài thơ “đánh bạc" giúp ta cảm và hiểu sâu hơn, thú vị hơn bức chân dung “Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc".

Câu thơ thứ 2, tác giả hình như nhìn thấy trên đường chuyển lao một cảnh sát trưởng:

"Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền"

Nam Trân đã dịch: “Giải người, Cảnh trưởng kiếm ăn quanh".

Nguyên tác: Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải.

Câu 1 đối xứng với câu 2, mỗi bức chân dung biếm họa có một nét riêng. Ban trưởng thì lo ăn chơi cờ bạc. Cảnh trưởng thì trắng trợn “móc túi" ăn tiền phạm nhân. Chuyện bọn cai ngục, cảnh sát trưởng ăn tiền phạm nhân đã thành “lệ” mà nhà thơ đã nhiều phen trở thành “nạn nhân". “Mới đến nhà giam phải nộp tiền - Lệ thường ít nhất năm mươi nguyên" (“Tiền vào nhà giam"), “ Vào lao phải nộp khoan tiền đèn - Tiền Quảng Tây vừa đúng sáu nguyên" (“Tiền đèn").

Bình diện không gian xã hội trong bài thơ “Lai Tân" được mở rộng ở bức chân dung thứ ba:

“Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự".

“Thiêu đăng" là chong đèn, “biện công sự" nghĩa là làm việc công. Câu thơ dịch đã đảo việc công thành công việc. Những năm 60, nhiều bài viết về “Ngục trung nhật kí" đều cho rằng tên Huyện trưởng này chong đèn đêm đêm hút thuốc phiện, từ đó nhấn mạnh giá trị tố cáo hiện thực xấu xa, thôi nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch. Sự thật không phải như thế, chính Hồ Chủ tịch đã lấy mực đỏ gạch bỏ ba chữ “hút thuốc phiện" trong bức thư của nhóm dịch giả gửi hỏi ý kiến Người.

Trong xã hội cũ, bọn quan lại tự cho mình là “phụ mẫu” của dân, là “đèn trời soi xét”. Trong câu thơ chữ Hán có một chữ “đăng” rất đặc biệt:

“Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự".

Không phải là ngọn đèn công lí tỏa sáng vầng trán Huyện trưởng, một vị quan to mặt lớn quang minh chính đại? Ông ta có vẻ “mẫn cán" lắm, lo công việc quan suốt ngày chưa đủ, đêm đêm còn chong đèn làm việc công? Nhưng đâu phải thế, ông huyện trưởng Lai Tân là một kẻ rất quan liêu! Chuyện đánh bạc của Ban trưởng, chuyện ăn tiền phạm nhân bị giải của cảnh trưởng sờ sờ ra đó, sao ông ta không hay, sao ông ta không biết? Hay ông Huyện trưởng Lai Tân này là “cái ô” để bao che bọn thuộc hạ làm bậy “kiếm ăn quanh"!. Ba bức chân dung biếm họa song hành, cùng nối tiếp xuất hiện, mang một ý nghĩa thẩm mĩ đặc sắc, nó cho thấy một hệ thống quan lại Lai Tân là thế! Bộ máy quan liêu của chính quyền Quảng Tây thuở ấy là thế!

Trước những “gương mặt" ấy, thái độ nhà thơ như thế nào?

Câu cuối bài thơ, Người viết:

“Lai Tân y cựu thái bình thiên"

(Lai Tân vẫn thái bình như xưa).

Câu thơ toát lên một nụ cười châm biếm nhẹ nhàng mà sâu sắc. Nhà thơ như hỏi một cách bâng quơ: Lai Tân với hệ thống quan lại và chính quyền như vậy, thế mà !‘vẫn thái bình như xưa". Cách mỉa mai, châm biếm của tác giả “'Ngục trung nhật kí” là thế! Tính “hướng nội" của “Nhật kí trong tù” được thể hiện rất rõ về mặt đặc điểm thể loại, nó vừa là nhật kí lại vừa là thơ, chủ yếu là thơ trữ tình, tác giả viết cho mình, để mà suy ngẫm, để mà chiêm nghiệm, "Vừa ngẫm vừa đợi đến ngày tự do". Vì thế, bài thơ “Lai Tân" tuy có nêu ra ba chân dung về Ban trưởng, Cảnh trưởng, Huyện trưởng tiêu biểu cho cái xấu xa, đồi bại của bọn quan lại chính quyền Tưởng Giới Thạch thuở ấy, nhưng chỉ là để mỉa mai, châm biếm cái nghịch lí, nghịch cảnh mà nhà thơ đã và đang phải đối diện và cam chịu.

Đọc “Ngục trung nhật kí", ta bắt gặp một số “quan chức" nhân hậu, đáng yêu. Là Sở trưởng Long An họ Lưu “Ai ai cũng bảo bác công bình". Là Tiên sinh họ Quách “ân cần đối đãi ta". Là Trưởng ban họ Mạc “chẳng dùng quyền thế, chỉ dùng ân". Khoa viên họ Trần thì “nho nhã”, Chủ nhiệm họ Hầu thì “anh minh"... Cách nhìn của nhà thơ rất nhân hậu, trọng thị và công bằng, giữa cái xấu xa vẫn tìm thây cái tốt đẹp, cái tình người mà trân trọng. Chính nhờ những con người này, tấm lòng này, mà ta hiểu thêm cảm hứng chủ đạo bài thơ “Lai Tân": một nụ cười châm biếm tỏa rộng. Sau 3 chân dung biếm họa là một nhận xét trào lộng thâm trầm, sâu sắc. Nụ cười châm biếm trong bài thơ “Lai Tân” là nụ cười của một nhân cách văn hóa lớn: giàu trí tuệ và đạo đức cao đẹp.

Trong bài “Một tiếng nói hướng nội: Thế giới nhà tù và con người kiên nghị - trữ tình của tác giả ”, Trần Thị Băng Thanh và Nguyễn Huệ Chi có viết:

“Có khi điều trái ngược đã vượt ra khỏi khung cảnh một nhà tù, trở thành tính chất tiêu biểu cho cả xã hội Trung Hoa thời ấy (mà thật ra cũng chẳng riêng gì cho Trung Hoa và cho thời ấy): quan trên trì trệ, vô trách nhiệm, cấp dưới chỉ lo xoay xở kiếm ăn, mặc cho mọi tệ nạn cứ tự do hoành hành:

“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,

Giải người Cảnh trưởng kiếm ăn quanh,

Chong đèn, Huyện trưởng bàn công việc,

Trời đất Lai Tân vẫn thái bĩnh”.

Tất cả những việc kì cục bày ra trước mắt như thế có ý nghĩa gì? Phải chăng đây không là một sự “lưỡng phân" tiếp tục trong nhận thức của nhà thơ: ngay khi đã phải “nhập thân" vào thực tại như một hiện hữu không thể chối bỏ, ông vẫn lần lượt đi tìm ý nghĩa của cái thực và cái giả ở từng khía cạnh khác nhau và trong các hình thức tồn tại khác nhau hiển nhiên của nó, có khi điều rút ra là một nụ cười buồn...".

3. Phân tích bài thơ “Lai Tân” trong “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh

Vào khoảng những năm ba mươi của thế kỷ XX, trên văn đàn Việt Nam đã dần dần có một sự trưởng thành mới. Thi ca giờ đây của Việt Nam không còn bị lệ thuộc vào những quy ước khắt khe của Nho gia rằng tất cả nhà thơ không được bộc lộ cái tài một cách tự do. Bước vào giai đoạn này, mỗi thi sĩ lại hiện diện trên văn đàn với một tư thế rất riêng, của riêng mình. Cũng bởi vì cái riêng này, họ – thi sĩ thời đại mới – đã có những định nghĩa rất khác về thơ. Nếu Xuân Diệu cho rằng

“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió

Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”

Thì Hàn Mặc Tử lại nói: “Thi sĩ là người gánh trên vai cả nỗi đau nhân loại”. Câu hỏi đặt ra rằng “nỗi đau nhân loại” đó là gì? Có thể là nỗi phiền muộn “tương tư” như Nguyễn Bính chăng? Hay là tư thế “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” của Huy Cận? Bên cạnh những nỗi đau trên, Hồ Chí Minh cũng đã “vô tình” thêm vào “nỗi đau nhân loại” kia một góc nhìn rất khác. Đó là góc nhìn vào cái xấu xa, thối nát của xã hội. Không còn chỉ là gói gọn trong “vòng trời đất dọc ngang ngang dọc” của đất Việt mà đã chạm đến cái mục rửa của xã hội Trung Quốc do chính quyền Tưởng Giới Thạch đứng đầu lúc bấy giờ. Tuy rằng “ngâm thơ ta vốn không ham” nhưng nếu là con người thì Hồ Chí Minh lại thờ ơ với những gì chướng tai gai mắt thế sao? Chỉ gói gọn trong bài thơ “Lai Tân”, tác giả đã nhẹ nhàng nhưng lại đả kích sâu cay một xã hội

"Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc

Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh

Chong đèn, huyện trưởng làm công việc

Trời đất Lai Tân vẫn thái bình"

Vì là người tù của chế độ Tưởng Giới Thạch nên không có gì khó hiểu khi tác giả lại vẽ ra một bức tranh hiện thực sắc sảo đến thế. Khi lược đọc qua bài thơ, người ta sẽ dễ dàng nhận thấy một nghịch lý – một nghịch lý rất lớn. Đúng rằng không thể phủ nhận được trong thi ca không được có những nghịch lý. Thi ca vẫn đươc quyền có những nghịch lý. Những nghịch lý đó đôi khi là cảnh “Hầu trời” của Tản Đà hay làm sao có thể được khi Xuân Diệu lại muốn “cắn” vào “xuân hồng”. Tuy là nghịch lý đấy nhưng tất cả đều mang trong mình một nét dễ thương của con người “ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”. Nghĩa là tuy nghịch lý về vật chất nhưng lại hợp lý trong tâm khảm.

Cái nghịch lý ở đây mà Hồ Chí Minh đặt ra cũng thế. Cái nghịch lý này giờ đây đã kèm theo chút nóng giận, bực tức. Làm sao có thể được khi một xã hội “ban trưởng chuyên đánh bạc”, “cảnh trưởng” lại “kiếm ăn quanh” mà “trời đất Lai Tân vẫn thái bình”? Quả thật, nếu như định nghĩa rằng “ban trưởng” là người trông coi nhà lao và “cảnh trưởng” là những người có nhiệm vụ giải tù nhân. Tất cả họ dường như đều chung một công việc là giáo dục tù nhân, giúp tù nhân tốt hơn. Nhưng thực tế thì không phải vậy.

Trong cái nghịch lý chủ đạo đã trình bày thì lại đâu đó nhen nhóm lên những nghịch lý khác. Chính là tại sao trong tù lại có cái nạn đánh bạc? Vẫn biết rằng chính xã hội lúc bấy giờ bên Trung Quốc thì món đánh bạc bị luật cấm. Nếu như anh đánh bạc thì không những anh, mà cả vợ con anh cũng bị liên lụy; còn riêng anh, anh phải đi tù. Đó là một thực tế và thực tế này đã được Hồ Chí Minh phác lại qua một lời ăn năn, hối tiếc của tên tù cờ bạc:

"Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội

Trong tù đánh bạc được công khai

Bị tù con bạc ăn năn mãi

Sao trước không vô quách chốn này?"

Chính bài thơ trên đã vẽ ra rất khéo sự lạm quyền đến khốn nạn của chế độ lúc đó. “Con bạc” kia bị tù là đáng rồi, thích đáng cho việc hắn làm. Nhưng làm sao có thể im lặng được khi cái kẻ bắt mình vì tội đánh bạc thì chính y cũng đánh bạc. Thế là cả cai tù và phạm nhân đều là tòng phạm. Cùng đánh bạc với nhau cả thôi, nếu tôi có tội thì anh cũng chẳng thoát; thế mà lấy cái tư cách gì mà anh bắt tôi? Quả đúng như thế, vị quan kia không có tư cách để “bắt tội” nhưng hắn có quyền. Hắn có quyền, cái quyền mà chế độ Tưởng Giới Thạch đã “ban tặng” cho hắn. Và rồi cái nghịch lý ở đây là nhà lao giờ đây đã bị biến thành sòng bạc “được công khai”. Tại đây, ngay cái nơi mà tù nhân ước gì mình đừng vô đây lại được cấp giấy phép đánh bạc. Ngay cả đến “con bạc ăn năn mãi”: Thà lúc trước vào đây đánh bạc để khỏi bị kết tội. Nực cười chăng? Cũng có thể. Chua cay chăng? Cũng có thể. Đau đớn chăng? Cũng có thể. Cái nhà tù Tưởng Giới Thạch là thế đấy!

Và rồi, không chỉ có nạn đánh bạc vậy đâu mà nơi đây còn bị Hồ Chí Minh chụp ảnh lại:

“Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh”.

Lại thêm cái nạn hối lộ. Đã quá đong đầy những sự thối nát, mục rửa của nhà tù Tưởng Giới Thạch. Khi bước vào lao tù, phạm nhân luôn ý thức rằng này đây mình sẽ bị đánh, bị đối xử có thể thậm chí như một súc vật. Biết là thế nhưng nếu với ý nghĩa nhà tù là nơi cải tạo phạm nhân thì lại sao có cái tình trạng hối lộ? Nghịch lý! Ở một bài thơ khác, tác giả cũng đã khắc lại cái trớ trêu, cái khốn nạn của thói ăn hối lộ này một cách rất chân thực:

"Mới đến nhà lao phải nộp tiền

Lệ thường ít nhất năm mươi nguyên

Nếu anh không có tiền đem nộp

Mỗi bước anh đi một bước phiền"

Thì ra cái thói ăn hối lộ là một “lệ thường”. Bây giờ đã rõ đến tận gốc rễ của sự việc. “Cảnh trưởng” dường như có được cái quyền làm cho “mỗi bước anh đi một bước phiền” nếu như tù nhân không có “năm mươi nguyên” đem nộp. Ở nơi “tối tăm mù mịt ấy”, tác giả đã thấy, đã chua xót, đã cay đắng vì cái nghịch lý khốn nạn, trớ trêu này. Dường như tác giả đang tìm một sự hợp lý nào đó.

“Chong đèn, huyện trưởng làm công việc”

Tưởng chừng như “huyện trưởng” là một vị quan rất lo cho dân, rất thương dân nên khi đêm đã về, vạn vật như chìm đắm trong giấc mộng thì ông lại “thiêu đăng” để làm việc. Điều này thật là quý hóa! Nhưng câu hỏi đặt ra nếu như ông ta lo lắng cho dân, cho nước như thế thì tại sao cấp dưới của ông ta lại xảy ra, xuất hiện những thói đời như thế. Phải chăng ông là người có tài nhưng lại bất lực; hay ông cố tình cho qua và “cho phép” cấp dưới được quyền như thế? Vấn đề đặt ra tiếp theo rằng phải chăng “huyện trưởng” đã được cấp dưới đút lót? Đó quả là một câu hỏi lớn – một câu hỏi phải để cho chính chế độ đó trả lời. Một mặt khác, nếu như đánh đồng những đối tượng trong ba câu thơ đầu thì có lẽ “huyện trưởng” hằng đêm “thiêu đăng” để hút thuốc phiện. Không phải một cách cường điệu mà ghép hết tội này đến tội khác cho ông; nhưng dù có cố tìm một lý do chính đáng cho những hành động giữa đêm như thế trong bối cảnh này cũng là khó khăn.

Chỉ cần lướt qua ba câu thơ đầu của “Lai Tân”, người đọc đã có thể thấy đó như một thước phim mà tác giả đang cố tái hiện lại một cách chân thực. Thước phim này chiếu lại một bộ máy cai trị ở Lai Tân gồm “ban trưởng”, “cảnh trưởng”, “huyện trưởng” với những việc làm xem ra là bình thường trong cái xã hội bấy giờ. Bình thường đến mức tầm thường! Thực tế là vậy. Một điều minh nhiên rằng cái xã hội đó sẽ không “thái bình”. Nhưng đến câu cuối bài thơ, với tất cả những sự việc như thế mà tác giả lại kết luận rằng:

“Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”

Dường như là dửng dưng và vô cùng nghịch lý. Tuy là thế nhưng tác giả đã sâu cay đả kích một cách nhẹ nhàng nhưng lại thấm thía. Nhãn tự “thái bình” đồng thời vừa vạch ra một nghịch lý, vừa vẽ ra một hợp lý mang “phong cách” Tưởng Giới Thạch. Phải chăng “thái bình” là do được sự đồng lòng nhất quán từ “cảnh trưởng”, “ban trưởng” đến “huyện trưởng”. Tất cả đều như nhau, cũng thối nát, mục rữa. Lại thêm với nhãn tự “thái bình”, tác giả dường như đang khẳng định rằng tình trạng của chế độ thống trị xã hội Trung Quốc bấy giờ vẫn xảy ra bình thường, không có gì phải lạ cả, thậm chí điều đó gần như là bản chất của guồng máy cai trị ở đây. Chỉ cần như thế thôi, tác giả đã mỉa mai châm biếm cái xã hội dưới thời Tưởng Giới Thạch đó một cách sâu sắc đến vậy. Sâu sắc là bởi thi nhân đã nhìn thấy vào trong cái sự thật đã được che đậy bằng bề mặt giả tạo của bộ máy cai trị này.

Hồ Chí Minh dường như đã thật sự trở thành một thi sĩ vì tác giả đã “gánh trên vai cả nỗi đau nhân loại”. Thi nhân vừa thương vừa đả kích mạnh mẽ. Bút pháp châm biếm nhẹ nhàng mà thấm thía cùng nhãn tự “thái bình” đặc biệt xen giữa nhịp thơ 4/3 đã giúp thi sĩ hoàn thành “Lai Tân”. Rất chính đáng, vô lý nhưng lại có lý hết lời!

Hùng Cường

Nguồn Đắk Nông: https://baodaknong.vn/top-3-bai-phan-tich-tac-pham-lai-tan-cua-ho-chi-minh-hay-nhat-ngu-van-11-203972.html