Top 2 bài văn mẫu hay nhất phân tích tác phẩm Thề non nước của Tản Đà - Ngữ văn 11

Bài văn mẫu lớp 11: Phân tích tác phẩm Thề non nước - Tản Đà bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn ngữ văn 11.

Mục lục

I. Tìm hiểu chung tác phẩm Thề non nước của Tản Đà
1. Tác giả Tản Đà
2. Tác phẩm Thề non nước
a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
b. Thể loại
c. Bố cục
d. Ý nghĩa nhan đề
II. Dàn ý chung phân tích bài thơ Thề non nước của Tản Đà
A. Mở bài
B. Thân bài
C. Kết bài
III. Danh sách đề thi phân tích bài thơ Thề non nước của Tản Đà
1. Phân tích bài thơ Thề non nước của thi sĩ Tản Đà.
2. Đọc bài thơ Thề non nước của Tản Đà, người thì cho rằng đây là bài thơ viết về tình yêu thắm thiết của nam nữ, người thì quả quyết là tác giả nói về phong cảnh thiên nhiên hữu tình, nhưng có người lại khẳng định: Thông qua câu chuyện tình yêu và lời thề thủy chung gắn bó của non và nước, tác giả muốn gửi gắm tâm sự đau buồn trước hiện tại tang thương của đất nước và niềm ước vọng ở ngày mai. Theo anh (chị) nên hiểu bài thơ như thế nào và hãy phân tích bài thơ để thuyết minh cách hiểu đó.

I. Tìm hiểu chung tác phẩm Thề non nước của Tản Đà

1. Tác giả Tản Đà

- Tản Đà (1889-1939) là bút danh của Nguyễn Khắc Hiếu.

- Quê ở Khê Thượng, Bất Bạt, nay thuộc Ba Vì, Hà Tây. Tinh thông Hán học, phong tình tài hoa.

- Là thi sĩ tài ba, tên tuổi chói sáng trên thi đàn Việt Nam những năm hai mươi của thế kỷ này.

- Tác phẩm gồm có: Giấc mộng con, Giấc mộng lớn, Khối tình con, Tản Đà, v.v…

- Ông là người dịch thơ Đường hay nhất ở nước ta.

- Cái Tôi lãng mạn bay bổng là hồn thơ Tản Đà: đằm thắm, thiết tha, buồn nhiều mà vẫn gắn bó với quê hương đất nước.

- Hoài Thanh xem Tản Đà là “người của hai thế kỷ” vì thơ ông là cái vạch nối giữa hai nền văn học của dân tộc: cổ điển và hiện đại.

2. Tác phẩm Thề non nước

a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

– Bài thơ “Thề non nước” được Tản Đà sáng tác năm 1920, sau đưa vào truyện ngắn cùng tên. Cô đào Vân Anh và du khách cùng nối lời nhau mà thành bài thơ khi cùng ngắm, cùng vịnh bức cổ họa sơn thủy.

– Qua việc vịnh bức tranh sơn thủy, bài “Thề non nước” thể hiện một mối tình thủy chung của lứa đôi, đồng thời gửi gắm một tình yêu nước thầm kín và sâu nặng.

b. Thể loại

Tác phẩm được viết theo thể thơ lục bát.

c. Bố cục

- Phần 1 (4 câu đầu): Lời của du khách

- Phần 2 (10 câu tiếp): Lời của cô đào Vân Anh

- Phần 3 (6 câu tiếp): Lời của du khách

- Phần 4 (2 câu cuối): Lời của cô Vân Anh

d. Ý nghĩa nhan đề

Bài thơ “Thề non nước”, bài thơ đặc sắc của Tản Đà được viết trước, rồi sau đó tác giả mới dựa vào bài thơ mà sáng tác truyện ngắn “Thề non nước”, như tác giả nói là “chép lời phong nguyệt mà gửi lời nước non”. Bài thơ đa nghĩa, nhưng trong sâu thẳm của hình ảnh, nhạc điệu và ngôn từ là tấm lòng của thi nhân đối với non sông đất nước

Thề non nước là lời thề giữa núi và nước, là mối tình, là sự cam kết giữa núi và nước. Đồng thời qua câu chuyện giữa núi và nước, tác giả cũng muốn đề cập đến lời thề giữa hai người thương nhau. Hai người đó có thể là hai cha con, hai mẹ con, hai anh em, hai vợ chồng hay hai thầy trò. Người này nguyền với người kia, hứa hẹn với người kia là không bỏ người kia cho dù biển có cạn đá có mòn. Nhưng vì biến cố nào đó, mà cách xa nhau. Do cách xa nên có sự trách móc, giận hờn.

Chữ thề trong "Thề non nước“ là lời nguyền. Non là núi và nước là sông, là biển. Một điểm rất thú vị ở bút hiệu của tác giả thi phẩm: Tản Đà là từ được ghép từ hai chữ đầu của hai địa danh rất nổi tiếng ở miền Bắc – Núi Tản Viên và sông Đà Giang. Đây cũng chính là quê hương của thi sĩ. Được sinh ra, được lớn lên, được hun đúc bởi khí thiêng của sông núi nơi đây –Núi Tản, sông Đà, đã hình thành trong ông khí phách của người chí sĩ.

Phân tích bài thơ Thề non nước của Tản Đà

II. Dàn ý chung phân tích bài thơ Thề non nước của Tản Đà

A. Mở bài

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và nội dung bài thơ.

B. Thân bài

* Hình ảnh bức tranh sơn thủy

Nói là bức cổ họa sơn thủy, nhưng không có “thủy” vì “nước đi đi mãi không về cùng non”. Chỉ có núi: “Non cao những ngóng cùng trông”. Có suối nhưng suối đã cạn kiệt bao giờ, nay chỉ còn “suối khô dòng lệ…). Có cây mai già trụi lá trơ cành: “xương mai”. Có sương tuyết và mây phủ dày trên đỉnh núi.

Có màu xanh của ngàn dâu. Và có màu vàng của tà dương:

"Trời tây ngả bóng tà dương

Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha"

Bức cổ họa rất đẹp mà buồn, thấm đượm màu tang thương ly biệt và chờ mong.

* Nước non nặng một lời thề

– Nước và Non trong bài thơ là hình ảnh của lứa đôi. Trong 22 câu thơ, từ non, nước xuất hiện tới 27 lần. Lúc đầu là Nước Non, biệt ly thì “Nước… Non”, nhớ mong thì “Non… nước/Nước… Non”. Ngày tái hợp: Non Non Nước Nước.

– Nặng thề nguyền nhưng trắc trở biệt ly, đáng thương:

"Nước non nặng một lời thể

Nước đi đi mãi, không về cùng non"

Bi kịch của mối tình là đã nặng lời thề nhưng sau đó “nước đi đi mãi”…

– Cảnh đợi chờ. Đó là hình bóng một giai nhân. Vò võ, buồn thương, đau khổ, tàn phai. Những ẩn dụ đầy gợi cảm: dòng lệ, xương mai, tóc mây, vẻ ngọc, nét vàng… Những vần thơ đẹp như câu Kiều:

"Non cao những ngóng cùng trông

Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày.

Xương mai một nắm hao gầy,

Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.

Trời tây ngả bóng tà dương

Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha”

– Có trách móc giận hờn:

“Non còn nhớ nước, nước mà quên non”

– An ủi, vỗ về:

“Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.

Nước non hội ngộ còn luôn,

Bảo cho non chớ có buồn làm chi…”

– Thủy chung sắt son!

“Nghìn năm giao ước kết đôi

Non non nước nước chưa nguôi lời thề”

Tóm lại, một bị kịch tình yêu. Có ly biệt, nhớ mong, đau khổ, nhưng mãi mãi tái hợp, sum họp. Buồn thương nhưng không tuyệt vọng. Mối tình ấy được Tản Đà diễn tả bằng những vần thơ giàu hình tượng và truyền cảm với một nhạc điệu du dương, thắm thiết.

* Nước đi chưa lại

– Nhan đề bài thơ là “Thề non nước”, nghĩa là thề vì nước vì non. Bài thơ đã xuất hiện trong tác phẩm Tản Đà trên 2 lần, đó là một ẩn ý vừa kín đáo vừa cảm động. Thi sĩ Tản Đà cũng có vài bài thơ “Vịnh bức dư đồ” của đất nước:

“Nọ bức dư đồ thử đứng coi,

Sông sông núi núi khéo bia cười.

Biết bao lúc mới công vời vẽ

Sao đến bây giờ rách tả tơi?…”

Có đặt bài thơ “Thề non nước” bên cạnh các bài thơ “Vịnh dư đồ…”, “Chim họa mi trong lồng”,… ta mới cảm nhận được tình cảm yêu nước thiết tha của Tản Đà. Ông không phải là một chiến sĩ cách mạng. Ông là một thi sĩ, ông đã gửi gắm tấm lòng của mình với giang sơn Tổ quốc một cách kín đáo và đầy tính chất nghệ thuật.

* Bút pháp nghệ thuật điêu luyện

- Thơ lục bát trau chuốt. Có lúc mang hồn quê dân dã, phảng phất ca dao dân ca

- Sử dụng thủ pháp phân – hợp ngôn từ rất tinh tế để gợi tả, biểu cảm. Non và Nước xuất hiện ở tần số cao trong bài thơ. Lúc gắn bó thề nguyền thì “Nước Non”, lúc biệt ly xa cách thì Nước… Non”

- Sáng tạo trong vận dụng các biện pháp tu từ nhân hóa, ẩn dụ, điệp ngữ… để xây dựng hình ảnh mĩ lệ, đầy chất thơ.

C. Kết bài

“Thề non nước” là “bài thơ tuyệt tác” như thi sĩ Lưu Trọng Lư đã ngợi ca. Một bài thơ đa nghĩa, có chuyện vịnh cảnh, có màu sắc phong tình tài hoa, và còn có tấm lòng thiết tha gắn bó của thi sĩ với Tổ quốc giang sơn trong cảnh ngộ mất chủ quyền. Sắc điệu trữ tình thiết tha của “Thề non nước” mãi mãi hòa quyện hồn người và hồn nước thiêng liêng.

Top 3 bài văn mẫu hãy nhất phân tích tác phẩm Một thời đại trong thi ca - Hoài Thanh (Ngữ văn 11)

8 Bài văn mẫu phân tích tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia - Vũ Trọng Phụng - Ngữ văn 11

5 Bài văn mẫu phân tích tác phẩm Đời thừa - Nam Cao - Ngữ văn 11

III. Danh sách đề thi phân tích bài thơ Thề non nước của Tản Đà

1. Phân tích bài thơ Thề non nước của thi sĩ Tản Đà.

Tản Đà (1889 - 1939) có câu thơ tuyệt bút:

"Tài cao, phận thấp, chí khí uất,

Giang hồ mê chơi quên quê hương".

(Thăm mộ cũ bên đường)

Người đọc xưa nay vẫn tìm thấy bóng dáng Tản Đà qua vần thơ ấy. Tên là Nguyễn Khắc Hiếu, lấy núi Tản, sông Đà làm bút danh. "Giấc mộng lớn", "khối tình con", "Thề non nước" là những tác phẩm nổi tiếng của Tản Đà. Chất tài hoa tài tử, lãng mạn, giang hồ... in đậm trong thơ, văn Tản Đà. Những năm XX của thế kỉ này, Tản Đà là thi bá trên thi đàn Việt Nam. Ông được nhà văn Hoài Thanh trân trọng ngợi ca là "Người của hai thế kỉ”, vì thơ văn của Tản Đà chính là gạch nối giữa hai nền văn học của dân tộc: cổ điển và hiện đại.

Bài thơ "Thề non nước" là một kiệt tác của Tản Đà. Bài thơ nằm trong truyện ngắn cùng tên, được Tản Đà sáng tác năm 1921. Cô đào Vân Anh là một du tử - hai nhân vật trong truyện, ngồi uống rượu, cùng nối lời nhau, làm thơ vịnh bức tranh sơn thủy - bức cổ họa - có ba chữ triện, chữ Nôm "Thề Non nước" mà thành bài thơ này. Bức cổ họa chỉ có một dãy núi, không có vẽ sông nước, dưới chân núi có một ngàn dâu gợi cảnh tang thương biến đổi. Bài thơ viết bằng thể thơ lục bát, gồm có 22 câu thơ. Bốn câu đầu là lời vịnh của du khách, 10 câu tiếp theo của cô đào Vân Anh, 6 câu nối tiếp lại là lời của du khách, 2 câu cuối là tiếng thơ của Vân Anh.

Ngoài những chi tiết nghệ thuật vịnh bức cổ họa, bài thơ "Thề non nước" còn ca ngợi một mối tình chung thủy sắt son của đôi lứa, đồng thời gửi gắm một tình yêu nước thầm kín sâu nặng.

Nói là bức tranh sơn thủy nhưng không có '"thủy" vì "Nước đi đi mãi không về cùng non". Chỉ có núi, một dãy "Non cao những ngóng cùng trông". Có cây mai già trụi lá trơ cành (xương mai). Có sương tuyết và mây phủ dày trên đỉnh núi. Có ngàn dâu xanh tốt dưới chân núi gợi màu tang thương biến đổi. Bao phủ toàn bức tranh là màu vàng tà dương:

"Trời tây ngả bóng tà dương

Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha".

Có thể nói, đó là một bức tranh cổ rất đẹp mà buồn, thấm đượm cái tình thương nhớ, tang thương.

Nước non nặng một lời thề.

Cũng như thuyền và bến, trong bài thơ này "non" và "nước" là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lứa đôi, cho trai và gái, cho giai nhân và người tình chung. Lứa đôi, non và nước đã yêu nhau, đã thề nguyền, đã "nặng lời thề". Lời thề sâu nặng và sắt son, bền vững như non như nước. Cảnh ngộ thật éo le và đáng thương. Lứa đôi đang trải qua những năm dài li biệt "Nước đi chưa lại, non còn đứng không”. Khi ngắm nhìn bức tranh, du khách đã cảm động nói: "núi tương tư”.

Sau những năm dài đợi chờ, thương nhớ và đau buồn, giai nhân (non) đã trở thành nàng cô phụ "non còn đứng không". Khóc than thảm thiết, bao nhiêu nước mắt đã khô cạn: "Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày". Thân hình tiều tụy đáng thương như một gốc mai già trụi lá trơ cành: "Xương mai một nấm hao gầy". Mái tóc xanh mềm mại như mây ngày nào, nay đã bạc trắng: "Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương". Tình lang đi mãi chưa về, giai nhân tuổi mỗi năm một cao, đã chiều tà ngả bóng, nhan sắc phai tàn. Còn đâu nữa "vẻ ngọc" và "nét vàng" thời con gái xa xưa: "Trời tây ngả bóng tà dương - Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha".

Tản Đà đã sáng tạo nên những hình ảnh ẩn dụ để đặc tả nỗi buồn cô đơn, tương tư của giai nhân. Có không ít câu thơ trong bài "Thề non nước" vừa đẹp vừa hay không thua kém những câu Kiều của Nguyễn Du. ''Tóc mây", "xương mai", "nét vàng", "vẻ ngọc", đặc biệt "suối khô dòng lệ",. là những hình ảnh mĩ lệ nói về sắc tài và bi kịch trong tình yêu của giai nhân. Còn nước mắt đâu nữa mà "tuôn". Chữ "khô" thể hiện cách chọn từ, dùng từ của Tản Đà rất tinh luyện, chính xác.

Chẳng cần xem bức họa mà chỉ đọc vài câu thơ cũng thấy như hiện ra trước mắt chúng ta một cái "núi tương tư" vậy:

"Non cao những ngóng cùng trông,

Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày

Xương mai một nắm hao gầy

Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.

Trời gây ngả bóng tà dương,

Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha".

Càng tương tư càng tủi hờn: "Non còn nhớ nước, nước mà quên non". Nhưng nàng cô phụ vẫn đinh ninh lời thề:

"Dù cho sông cạn đá mòn

Cồn non cồn nước hãy còn thề xưa".

"Dù... hãy..." niềm tin được khẳng định. "Sông cạn đá mòn" là một thành ngữ, nêu lên một giả định không bao giờ có thể xảy ra. Và cho dù có xảy ra trong muôn một, thì giai nhân vẫn son sắt thủy chung "hãy còn thề xưa". Ba chữ "còn" được láy lại trong vần thơ đã thể hiện sâu sắc, cảm động mối tình son sắt, thủy chung, bền đẹp của nàng cô phụ.

Nước đã đi xa, tình lang đã đi xa, chỉ còn lại tiếng đồng vọng trong không gian và thời gian li biệt. Hẹn ngày trở lại. Hẹn ngày tái ngộ, hội ngộ của lứa đôi. Chia sẻ nỗi buồn, an ủi tình nhân:

"Non mơ đã biết hay chưa?

Nước đi ra biển lại mưa về nguồn

Nước non hội ngộ còn luôn,

Bao cho non chớ có buồn làm chi".

"Ngàn dâu xanh tốt" như một chứng tích của thời gian, như một nổi tang thương đã biến đổi, và còn lại như một kỉ vật, vì thế "non thì cứ vui".

Hai câu kết như sự chung đúc một lời thề, "thề non nước":

"Nghìn năm giao ước kết đôi,

Non non nước nước, chưa nguôi lời thề".

Đã có lời "thệ hải minh sơn” trong tình sử. Đã có "đám cưới bạc". Cũng có “đám cưới vàng"... Đời người hữu hạn trăm năm. Nhưng lời thề của "non" và "nước" là lời thề "nghìn năm" kết đôi, thủy chung bền vững. Đó là một lời thề sâu nặng, bền đẹp đến muôn đời.

Nghệ thuật sử dụng biện pháp "phân - hợp" ngôn ngữ của Tản Đà rất điêu luyện để gợi tả và hiểu cảm thần tình. "Ngóng trông" được viết thành "những ngóng cùng trăng” diễn tả cái dằng dặc của sự đợi chờ, trông ngóng. Trong li biệt, hình ảnh ''non'' và "nước" nằm ở hai phía không gian - đầu, cuối câu thơ "Nước đi đi mãi không về cùng non". Trong cảnh sum họp, hội ngộ của lứa đôi thì non và nước sẽ thành non non nước nước gắn bó keo sơn, bền vững, lời thề chẳng bao giờ "nguôi", chẳng bao giờ "quên” được!

Tóm lại, lời thề của non và nước được nói đến một cách thắm thiết, thủy chung và cảm động.

Bài thơ "Thề non nước" là một bài thơ đa nghĩa. Có nội dung vịnh cảnh trong tranh. Có nội dung phong tình cố hữu của Tản Đà. Và còn có tấm lòng tha thiết gắn bó của nhà thơ với Tổ quốc giang sơn trong cảnh ngộ mất chủ quyền. Đầu thế kỉ XX, có một số nhà thơ nói lên lòng yêu nước, một cách thầm kín:

"Có phải tiếc xuân mà đứng gọi

Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ".

(Cuốc kêu cảm hứng" – Nguyễn Khuyến)

"... Nặng gánh em trở ra về!

Ngoảnh cổ trông sông rộng trời khuya...

Vì thương nước cạn, nặng nề em dám kêu ai!

(...) Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng

Nước non gánh nặng, cái đức ông chồng hay hỡi có hay!".

(Gánh nước đêm – Trần Tuấn Khải)

"Nọ bức dư đồ thử đứng coi

Sông sông núi núi khéo bia cười

Biết bao lúc mới công vờn vẽ

Sao đến bây rách tả tơi...".

(Vịnh bức địa đồ rách – Tản Đà)

Trong bài thơ "Thề non nước", hai chữ "non" và "nước" xuất hiện ở tần số rất cao: 27 lần, lúc thì nước nhớ non, lúc thì non nhắn nước, lúc thì, non non nước nước... Một giọng thơ thiết tha, có không ít câu thơ để lại nhiều ám ảnh:

''Nước đi đi mãi, không về cùng non,"

''Nước đi chưa lại, non còn đứng không,

Non cao những ngóng cùng trông,

Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày"...

"Non còn nhớ nước, nước mà quên non...''.

Có đặt bài thơ "Thề non nước" bên cạnh các bài thơ "Chim họa mi trong lồng", "Vịnh bức địa đồ rách", v.v... ta mới thấy tình yêu nước được nhà thơ kín đáo gửi gắm vào các chữ "nhớ nước", "quên non”. Tình yêu nước dào dạt cả bài thơ. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, trên thi đàn công khai. Tản Đà đã có một cách nói thật hay, thật xúc động về tấm lòng gắn bó thiết tha với giang sơn Tổ quốc. Trong thời Pháp thuộc, bài thơ "Thề non nước" như một vạch nối dẫn dắt người đọc, nhất là thế hệ thanh niên cảm nhận sầu hơn những vần thơ của Phan Bội Châu, của Pham Tất Đắc, v.v...

"Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn

Khói tuân khí uất, sóng cuồn trận đau”.

("Hải ngoại huyết thư”- Phan Bội Châu)

"Nghĩ thân thế héo hon tấc dạ

Trông non sông lã chã dòng châu..."

(''Chiêu hồn nước" - Phạm Tất Đắc)

Tóm lại, "Thề non nước" là một bài thơ kiệt tác của thi sĩ Tản Đà, sắc điệu trữ tình dào dạt trong những vần thơ nói về sự thương nhớ, chờ mong. Chờ người yêu nặng lời thề, xa vắng. Nhớ hồn nước bơ vơ. Các biện pháp tu từ ẩn dụ, nhân hóa, điệp từ điệp ngữ, biện pháp phân - hợp v.v... đã tạo nên những câu thơ lục bát tuyệt hay, đọc qua một lần nhớ mãi.

Thi sĩ Tản Đà đã nói hộ chúng ta những tình cảm đang nảy nở trong lòng. “Thề non nước" thể hiện tuyệt đẹp cốt cách phong tình tài hoa của thi sĩ Tản Đà.

Lời thề xưa cứ ngân nga mãi trong lòng ta. Cả một trời yêu thương, mong nhớ, đợi chờ mênh mang:

"Nghìn năm giao ước kết đôi

Non non nước nước chưa nguôi lời thề”.

2. Đọc bài thơ Thề non nước của Tản Đà, người thì cho rằng đây là bài thơ viết về tình yêu thắm thiết của nam nữ, người thì quả quyết là tác giả nói về phong cảnh thiên nhiên hữu tình, nhưng có người lại khẳng định: Thông qua câu chuyện tình yêu và lời thề thủy chung gắn bó của non và nước, tác giả muốn gửi gắm tâm sự đau buồn trước hiện tại tang thương của đất nước và niềm ước vọng ở ngày mai. Theo anh (chị) nên hiểu bài thơ như thế nào và hãy phân tích bài thơ để thuyết minh cách hiểu đó.

Thề non nước của Tản Đà là một bài thơ đa nghĩa. Hai hình tượng trung tâm của bài thơ là "non" và "nước" đúng là có thể được hiểu theo nhiểu cách khác nhau. "Non nước" có thể dùng để chỉ thiên nhiên ("Đường vô xứ Huế quanh quanh - Non xanh nước biếc như tranh họa đồ" - Ca dao); cũng có thể dùng để chỉ tình yêu nam nữ ("Tóc thề đã chấm ngang vai - Nào lời non nước nào lời nước non" - Nguyễn Du); và cũng có thể chỉ đất nước (“Chỉ làm trả nợ nước non cho rồi” - Nguyễn Đình Chiểu), hay ("Nước non rên xiết trong xiềng xích” - Tố Hữu).

Xem ra, cách hiểu nào cũng có lý. Nhưng thiết tưởng chúng ta vẫn cần xác định một cách hiếu đứng đắn hơn cả, xác đáng hơn cả. Muốn làm được điều này thì không thể không tìm hiểu một số nét về con người và phong cách thơ Tản Đà, về hoàn cành ra đời của bài thơ và những câu chữ quan trọng trong văn bản thơ.

Sinh ra trong một gia đình khoa bảng, Nguyễn Khắc Hiếu có lối sống hết sức độc đáo; lối sống ấy được coi như là một "tác phẩm tuyệt xảo, một bài thơ hay nhất" của Tản Đà. Ông là nhà Nho đầu tiên trở thành nhà vãn chuyên nghiệp, vừa đại diện xuất sắc cho thơ ca truyền thông, giữ được cái cốt cách của thời trước, vừa là người đầu tiên mang vào trong thơ cái "tôi", với những khát vọng thoát ra khỏi sự tù túng và khuôn sáo. Thơ Tàn Đà thường bộc lộ tấm lòng yêu nước thấm kín thiết tha. Lòng yêu nước ấy nhiều khi được biểu hiện qua tình yêu lứa đôi, qua những cặp tài sắc tri âm, tri kỷ.

Núi Tản sông Đà - nơi chôn rau cắt rốn của nhà thơ, từ lâu đã khơi nguồn cảm hứng để Tản Đà có ý định viề́t bài Thề non nước. Nhung mãi đến năm 1920, cảm hứng này mới thực sự được khơi dậy sau chuyến nhà thơ vào thăm Huế và Đà Nẵng để bài Thề non nước thì 12 câu ra đời. Sau đó, từ bài thơ này, thi sĩ viề́t thành truyện cũng lấy tên là Thề non nước, in trong tập Tản Đà tùng văn, 1922. Trong truyện có xen vào những đoạn của bài thơ nói trên và có thêm 10 câu nữa, tổng cộng thành 22 câu.

Để hiểu bài thơ, thiết tưởng cũng nên điểm qua nội dung truyện ngắn Thề non nước. Truyện gồm có ba hồi tập trung vào hai nhân vật Vân Anh và khách. Vân Anh vốn là "một người con gái có nhan sắc, có tài hoa, có học vấn", chỉ vì gia đình sa sút mà phải trở thành cô giáo sống trong một xóm vắng, ít người lui tới. Người du khách thường đi lại nhà Vân Anh cũng không phải là kẻ tầm thường "say đắm ở nơi bình khang", mà là một đấng trượng phu, mang nặng "khối tình". Hai người xem nhau như tri âm, tri kỷ. Thực chất, họ đều là những "tao nhân mặc khách", có tâm sự ưu thời mẫn thế.

Vân Anh có một bức tranh sơn thủy vẽ dãy núi và ngàn dâu. Nàng ngỏ ý nhờ du khách đề thơ hộ nhất trí lấy chữ non làm chủ thể với chữ nước trẽn cơ sở biến thiên của cuộc đời tên bài thơ là Thề non nước, làm theo lối liên ngâm (mỗi người làm một số câu rồi hợp lại mả thành) Bốn câu mở đầu là của khách. Tám câu tiếp theo là cùa Vân Anh. Sau đó, người khách ra đi, mãi không thấy trở về; một tối, Vân Anh buổn làm thêm hai câu "Dù cho sông cạn đá mòn - Còn non, còn nước hãy còn thề xưa". Đúng lúc ấy, người khách xuất hiện. Khi tửu hứng nồng nàn, khách làm tiếp sáu câu tiếp theo và Vân Anh làm tiếp hai câu kết.

Thế rồi, hai người chia tay nhau. Khách không hẹn ngày trở lại

Thực ra, trong truyện ngắn này, Tàn Đà đã hóa thân thành hai nhân vật Vân Anh và du khách, "do đó, cuộc đối thoại giữa hai nhân vật xuyên suốt tác phẩm, đặc biệt là qua bài thơ liền ngâm Thề non nước chẳng qua là sự đối thoại nội tâm của chính tác giả"

Để hiểu bài Thề non nước, không những nên tham khảo truyện ngắn cùng tên nói trên, mà điều đáng lưu ý hơn là phải đặt bài thơ vào toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Tản Đà. Bên cạnh Thề non nước, Tản Đà còn có những bài thơ: Vô đề Thư gửi người tình nhân không quen biết, Vịnh bức dư đổ rác, thơ viề́t cho Tây Thi hát trong Giấc mộng con, tất cả đều ít nhiều có chung một nội dung là nỗi niềm đối với đất nước. Ở cấp độ khác, cũng nên đặt bài thơ nói trên vào bối cảnh của văn chương dân tộc những năm 20 - "thời kỳ thơ thu, thơ sầu non nước được mùa", "hình như thơ cũng chưa quên hẳn một để tài truyền thông: Tình yêu Tổ quốc. Nhưng nó không dám nói thẳng nữa. Cho nên cũng chưa bao giờ hình tượng bơ vơ của Tổ quốc, mấy chữ nước non, non nước được vận dụng một cách phi phạm như lúc này".

Những điều nói trên tạo điếu kiện rất cấn thiết để tìm hiểu bài thơ Thề non nước và chúng ta có thể nhất trí với ý kiến cho rằng: "thông qua câu chuyện tình yêu và lời thề thủy chung gắn bó của "non" và "nước", tác giả muốn gửi gắm tâm sự buồn dau trước hiện tại tang thương cùa đất nước và niềm ước vọng ở ngày mai. Dưới đây. chúng ta sẽ phân tích bài thơ theo cách hiểu đó.

Đoạn đầu bài thơ, Tản Đà giới thiệu hai nhản vật - hai hình tượng trung tâm là "non" - "nước" trong sự gắn bó và cách xa:

Nước non nặng một lời thề,

Nước đi đi mãi không về cùng non.

Nhớ lời nguyện nước Thề non

Nước đi chưa lại non còn đứng không.

Hai ý được thể hiện qua bốn câu thơ theo lối đan xen. Hai câu sau "Nước non nặng một lời thề”; "Nhớ lời nguyện nước thề non" đều ngắt nhịp 2/4 nói về sự gắn bó thiêng liêng của một lời thề sâu nặng. Câu thơ đầu được tác giả phối hợp bằng trắc một cách tài tình nhắc lại ý thề nguyễn ở tựa đề. Chữ "nặng" để trước chữ "một lời thề" đúng là đã làm cho câu thơ trĩu xuống. Về ngữ nghĩa lẫn trình tự câu chữ đã gợi lên được sự sâu nặng của lời thề. Hai câu tám "Nước đi đi mãi không về cùng non"; "Nước đi chưa lại non còn đứng không" đều ngất nhịp 4/4 để nói về sự cách xa. Bốn chữ "Nước đi đi mãi" vừa khêu gợi được sự cách xa thăm thẳm, mịt mùng về không gian, vừa khêu gợi được sự xa cách triển miên vô tận về thời gian.

Ở bốn câu thơ trên nói riêng, và ở cả bài thơ nói chung, nghệ thuật điệp từ đã được nhà thơ sử dụng một cách biến hóa đem lại hiệu quà đáng kể. Tiêu biểu nhất là việ̀c dùng những từ "non" và "nước". Chúng dược đặt ở những vị trí khác nhau. Lúc thì đi liền nhau: "Nước non nặng một lời thề”; lúc thì đan chéo nhau: "Nhớ lời nguyện nước thề non" để khắc họa sự gắn bó mật thiết. Khi thì, "nước non" lại bị xé ra, để mở đầu và kết thúc câu thơ: "Nước đi đi mãi không về cùng non"; khi thì, mở đầu hai vế của một câu thơ "Nước đi chưa lại, non còn đứng không" để biểu đạt sự chia li, cách xa. Như vậy, rõ ràng, hai từ "non" và "nước" đã được sử dụng với tần số cao, nhưng người đọc hoàn toàn không có ấn tượng về sự trùng lặp nhàm chán, ngược lại vẫn thấy tự nhiên thanh thoát, nhờ tài sử dụng linh hoạt biến hóa của tác giả để khác họa những ý tưởng khác nhau.

Vá lại, bốn câu thơ đầu ngữ nghĩa có phần mơ hồ, không xác định. Điều này vừa thích hợp với tính chất đa nghĩa của hình tượng "non, nước", vừa làm cho đoạn thơ hàm súc, "ngụy trang" giấu kín nỗi niềm "gửi lời nước non" của nhà thơ.

Như vậy, với kĩ thuật thơ điêu luyện, với năng lực sử dụng tiếng việ̀t bậc thầy, và đặc biệt bằng một tấm lòng gắn bó sâu nặng với quê hương đất nước của thi sĩ; đoạn đầu bài thơ có sức vang ngân trong lòng độc giả, góp phân biểu đạt tâm trạng vừa đau buồn, vừa thắp thêm hi vọng của nhà thơ.

Như một tất yếu, khi đã gắn bó thề nguyền mà có sự chia li - có kẻ ra đi, người ở lại; thì đương nhiên có nhớ thương mong chờ tiếp theo đoạn một, đoạn thứ hai của bài thơ gốm 10 câu triển khai trên cơ sở nội dung ấy.

Nếu như bốn câu thơ đẩu vừa phân tích trên đây chủ yếu là những câu tự sự (kể), thì sáu câu thơ tiếp theo lại là những câu thơ có chức năng miêu tả. Nhà thơ tập trung khác họa hình ành của "non" trong những ngày xa "nước".

Non cao những ngóng cùng trông

Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày.

Xương mai một nắm hao gày

Tóc mây một mái đã dày tuyết sương.

Trời tây ngả bóng tà dương,

Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.

Như vậy, người đi là "nước", kẻ ở lại là "non", ở đây "non" có người hiểu là chính thi sĩ Tản Đà, cũng có người hiểu là đất nước mất chủ quyền. Tuy vẫn có thể giải thích theo nhiều cách khác nhau, nhưng quả thật, bắt đầu từ câu thơ thứ năm mở đầu cho đoạn hai, dựa vào mạch thơ và hình ảnh thơ, "non" ít nhiêu đã có ý nghĩa cụ thể hơn. Phải chăng, ở đầy điều chính yếu Tản Đà muốn nói đến là: xa "nước", "non" sổng trong một trạng thái vô vàng, cô lẻ. (Từ "non" đứng trơ trọi một mình và chỉ xuất hiện một lần trong suốt sáu câu thơ vừa dẫn). "Non" khác khoải như cố vươn lên cao ("non cao") đăm đắm nhìn về phía trời xa để trông đợi "nước" đến bồn chồn da diết ("ngóng trông"). Sự bồn chồn da diết ấy kéo dài dai dẳng liên tục theo thời gian ("những ngóng cùng trông"). Nhờ cách dùng điệp nghĩa (đã "ngóng" lại còn "trông"), cách sử dụng cập từ quan hệ chỉ sự gia tăng ("những" - "cùng"); tác giả sáng tạo được một câu thơ có sức khêu gợi, ám ảnh người đọc. Ngoài ra, cảnh tượng xung quanh chẳng những không làm cho "non" khuây khỏa nỗi lòng, ngược lại khiến "non" sầu muộn, vô vàng hơn. Con suối tựa như dòng nước mắt của người đợi chờ, bởi chảy hoài theo tháng năm, nên nay đà cạn kiệt. Cây mai vốn là biểu tượng của sự bất khuất thanh khiết vì sương gió phũ phàng cũng trở nên tiều tụy hao mòn. Mái tóc xanh óng ả ngày xưa củng bị năm tháng làm cho bạc trắng như tuyết sương... Tất cả cảnh vật dường như đều buồn, màu vàng vọt, yếu ớt của ánh chiều tà. Cảnh trạng này khiến người dọc hình dung ra dáng vẻ của một thiếu nữ kiều diễm, nhưng càng trong trạng thái héo hon, tiêu tụy. Điêủ̀ đó hoàn toàn có thể giải thích được vì ở Tản Đà, "cái bệnh đa tình" nổi lên ngay từ khi 5 tuổi Nhà thơ vốn là thi sĩ đa tình bậc nhất trong các thi sĩ đa tình. Bóng dáng của mĩ nữ thường xuất hiện trong thơ Tản Đà với một cảm hứng nồng nàn, say đắm. Tình cảnh của "non" còn làm chúng ta nghĩ hình ảnh người đàn bà bồng con đợi chờ chồng trong truyện Hòn Vọng Phu và nhớ tới nỗi mong ngóng người anh hùng Từ Hải của nàng Kiều:

Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,

Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.

(Truyện Kiều)

Nhưng điều quan trọng nhất, là bằng cách phác họa bức tranh thiên nhiên thật đẹp và cũng thật buồn nói trên, nhà thơ tô đậm hình ảnnh mong ngóng tội nghiệp của kẻ ở lại đối với người ra đi, của "non" đối với "nước".

Nếu như tình cảnh của "non" khiến ta thương xót, thì điều nguyện ước của "non" khiến ta cảm phục.

Dẫu cho đã mỏi mòn theo năm tháng, dẫu biết mình đă luống tuổi, nhưng trước sau, người ở lại vẫn khẳng định dù cho vật đổi sao dời, tình cảm đối với người ra đi vẫn trẻ trung, nồng thắm thiết tha: "Non cao tuổi vẫn chưa già". Câu thơ ngắt nhịp 3/3 tạo nên một sự đối lập, khác họa thành công ý tưởng nói trên. Và đến câu thơ tiếp theo: "Non còn thề nước, nước mà quên non" có lẽ không thể coi là một lời oán trách, hoặc lời nghi ngại của "non" đối với "nước" như có người đã từng hiểu. Đặt trong chỉnh thể bài thơ, phải chăng đây là một lời khẳng định: "nước" làm sao quên được "non"?

Ý tưởng ấy được nhấn mạnh, được khắc sâu thêm ở những câu thơ tiếp theo:

Dù cho sông cạn đá mòn,

Còn non, còn nước hãy còn thề xưa

Thực chất, đây vốn là những câu ca dao quen thuộc được Tản Đà "lắp ghép" vào bài thơ của mình một cách tự nhiên, nhuần nhị và chúng đã được đồng hóa trong một thi phẩm đậm đà tính dân tộc.

Xa "nước", "non" tàn tạ héo mòn nhưng vẫn khẳng định tấm lòng đợi chờ thủy chung son sắt của mình; vẫn tin có ngày hội ngộ cho dù, niềm tin này có thể chưa dựa trên một cơ sở chắc chắn, nhưng từ cành ấy, tình ấy nó vẫn làm cho người đọc cảm thông xúc động

Tám câu kết thúc bài thơ được thể hiện dưới hình thức một lời an ủi. Nhà thơ an ủi "non", nói cho đúng hơn nhà thơ tự an ủi chính bản thân minh bằng quy luật vận động của tự nhiên. Ý tưởng nhất định "nước" sẽ trở về, "non" và "nước" dứt khoát sẽ sum họp bền lâu đã được thể hiện bằng một câu thơ chắc nịch:

Non cao đá biết hay chưa

Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.

Đấy là một chân lí. Bởi vậy “Nưóc kia dù hãy còn đi - Ngàn dâu xanh tót non thi cứ vui”. Hình ánh "ngàn dâu xanh tốt" có thể xemlà hình ảnh của "nước". "Nước" vận động, biến đổi, nhưng "nước" không bao giờ mất. Do đó, hỉnh ảnh này đúng là có tác dụng làm cho cành tình sáng lên một chút niềm vui, xanh thêm màu hi vọng .. Đến hai câu cuối cùng nhà thơ lặp lại lần thứ tư lời thế và sử dụng thành công lối điệp kép làm cho câu thơ tảng thêm giá trị biểu cảm, một lần nữa khẳng định sự son sắt thủy chung giữa "non" và "nước" bằng một giọng điệu phơi phới tin yêu: "Nghìn năm giao ước kết đôi - Non non nước nước không nguôi lời thề”.

Tóm lại, bằng thể thơ và giọng thơ mang đậm màu sắc dân tộc, với năng lực sử dụng ngôn ngừ biến hóa đa dạng... bài thơ Thề non nước biểu hiện một cách thân tình và xúc động tấm lòng gắn bó máu thịt, nhớ thương da diết và tin tưởng sắt son... của nhà thơ núi Tản sông Đà đối với đất nước trong cảnh ngộ đau khổ bởi mất chủ quyền.

Tuy không khích lệ căm thù, không trực tiếp kêu gọi chiến đầu, nhưng Thề non nước đúng là "những vẩn thơ thiết tha lay động về đất nước” về quê hương xứ sở, do đó sẽ sống mãi trong tâm hồn người đọc.

Hùng Cường

Nguồn Đắk Nông: https://baodaknong.vn/top-2-bai-van-mau-hay-nhat-phan-tich-tac-pham-the-non-nuoc-cua-tan-da-ngu-van-11-205479.html