Quýt không chỉ bổ dưỡng mà còn là vị thuốc quý

Quýt là một loại quả thơm ngon, rất thông dụng ở nước ta và nhiều nước trên thế giới. Y học cổ truyền coi đây là một vị thuốc quý, được dùng phổ biến trong rất nhiều bài thuốc trị bệnh.

Đặc điểm của cây quýt

Theo sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GS.TS. Đỗ Tất Lợi, quýt còn gọi là quyết, hoàng quyết, trần bì, thanh bì. Tên khoa học Citrus deliciusae Tenore, Citrus nobilis var deliciosa Swigle. Họ cam rutaceae.

Cây quýt cho các vị thuốc sau:

- Trần bì (Pericarpium Citri deliciosa) là vỏ quýt phơi càng để lâu càng coi là quý và tốt. Trong nhân dân thường lưu truyền câu để chỉ rõ tầm quan trọng này: Nam bất ngoại trần bì/Nữ bất ly hương phụ. Có nghĩa là chữa bệnh cho nam giới không thể thiếu vị trần bì, chữa bệnh cho nữ giới không thể không dùng vị hương phụ.

- Quất hạch (Semen Citri diliciosae) là hạt quýt phơi khô.

- Thanh bì (Pericarpium Citri immaturi) vỏ quả quýt còn xanh.

Cây quýt đem lại nhiều lợi ích cho sức khỏe.

Cây quýt đem lại nhiều lợi ích cho sức khỏe.

Quýt được trồng ở khắp nơi trong nước ta, nhiều nhất tại các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Nam Định, Hà Nam, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh…

Tại Trung Quốc, ngoài cây cùng loài với quýt của nước ta, người ta còn trồng một số loài quýt khác và cũng cho vị trần bì và quất hạch như cây đại hồng cam, cây phúc quyết và cây châu quyết.

Ở Việt Nam, ngoài cây quýt ngọt, còn dùng vỏ nhiều loại cây quýt khác như quýt giấy, quýt tàu, quýt nuốm…

Vỏ quả quýt còn tươi chứa tinh dầu 3,8%, nước và thành phần bốc hơi được 61,25%; hesperidin, vitamin A, B và 0,8% tro.

Trong nước quýt có đường 11,6%, acid citric 25, vitamin C (25-40mg trong 100g), carotene. Trong lá quýt có chứa 0,5% tinh dầu.

Quả quýt không chỉ bổ dưỡng mà còn là vị thuốc quý.

Quả quýt không chỉ bổ dưỡng mà còn là vị thuốc quý.

Công dụng và liều dùng

Ngoài công dụng của quả quýt trong thực phẩm, vỏ và lá quýt để chế tinh dầu, quýt còn là một vị thuốc rất quan trọng và rất thông dụng trong đông y và trong nhân dân.

Theo tài liệu cổ: Trần bì vị cay, đắng, tính ôn vào hai kinh tỳ và phế, hạt vị đắng tính bình, vào hai kinh can và thận; có tác dụng kiện tỳ, lý khí, táo thấp, hóa đờm. Tác dụng của lá cũng như hạt.

Trần bì còn là một vị thuốc chữa ăn uống không tiêu, ăn không ngon, nôn, sốt rét, trừ đờm. Liều dùng hằng ngày: 4-12g hoặc hơn.

Quất hạch chữa sa đì (thiên trụy), ngày dùng 6-12g.

Nước quýt uống trong khi say rượu, giải khát, thêm vitamin bồi bổ.

Lá quýt hơ nóng đắp chữa đau bụng, ho, sưng vú; có khi phơi khô sắc uống như vỏ quýt. Ngày dùng 6-12g.

Vỏ quýt phơi khô - trần bì có trong nhiều bài thuốc chữa bệnh.

Vỏ quýt phơi khô - trần bì có trong nhiều bài thuốc chữa bệnh.

3. Đơn thuốc có trần bì

Giúp tiêu hóa tốt:Trần bì 0,5g, hoàng bá 0,3g, hoàng liên 0,3g, đảng sâm 0,3g, cam thảo 0,3g. Tất cả tán bột, trộn đều. Chia 3 lần uống trong ngày.

Chữa ho mất tiếng: Trần bì 12g, sắc với 200ml nước, còn 100ml cho thêm đường vào cho đủ ngọt, nhấp uống dần trong ngày.

Trong đông y còn dùng vị thanh bì (là vỏ quả chưa chín của nhiều cây chi Citrus thuộc họ cam quýt, hoặc quả non, tự nhiên rụng phơi khô cũng gọi là thanh bì). Công dụng của thanh bì cũng như trần bì. Liều lượng 6-12g/ngày. Sắc hay tán bột uống.

Hải Long

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/quyt-khong-chi-bo-duong-ma-con-la-vi-thuoc-quy-169230105210325867.htm