Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ TPHCM lần thứ IX, nhiệm kỳ 2010-2015

Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh lần thứ IX, nhiệm kỳ 2010 - 2015 tiến hành từ ngày 5 đến ngày 8 tháng 10 năm 2010 đã làm việc khẩn trương, nghiêm túc, ý thức trách nhiệm cao, dân chủ, đoàn kết, đổi mới; sau khi nghe và thảo luận Báo cáo chính trị, Báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa VIII nhiệm kỳ 2005 - 2010, Báo cáo tổng hợp ý kiến của tổ chức Đảng các cấp, cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân thành phố đóng góp vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ IX; tiếp thu phát biểu chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư và thảo luận tại đại hội; bầu Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa IX nhiệm kỳ 2010 - 2015 và bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng; Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố.

QUYẾT NGHỊ I. Tán thành những nội dung cơ bản về đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2005 - 2010 và mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ 5 năm 2010 - 2015 trong Báo cáo chính trị trình đại hội. 1. Về đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2005 - 2010, đại hội khẳng định: Năm năm qua, diễn biến phức tạp trên thế giới và khó khăn trong nước đã có những tác động bất lợi, song Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố đã phát huy truyền thống cách mạng kiên cường, năng động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu bền bỉ thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII Đảng bộ thành phố và Nghị quyết Đại hội X của Đảng, đạt được những thành tựu quan trọng và khá toàn diện. Kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao, kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể được củng cố và phát huy vai trò nòng cốt trong nền kinh tế thị trường, kinh tế tư nhân phát triển nhanh; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng nâng tỷ trọng dịch vụ cao cấp, giảm dần tỷ trọng các ngành công nghiệp thâm dụng lao động, phát triển nông nghiệp đô thị; quản lý và phát triển đô thị đạt một số kết quả; hoạt động đối ngoại và hợp tác kinh tế với các tỉnh được mở rộng; khoa học - công nghệ, văn hóa, giáo dục - đào tạo, y tế,… có bước phát triển tích cực; việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội và chương trình giảm nghèo theo tiêu chí mới góp phần cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân; an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên; cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phòng chống tham nhũng, lãng phí được đẩy mạnh; hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước có chuyển biến tích cực; vai trò của mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy. Vị trí, vai trò của thành phố đối với Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước ngày càng được khẳng định, tiếp tục có những đóng góp vào quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hình thành những quan điểm, chủ trương, chính sách đổi mới, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng. Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế và cơ cấu lao động chậm, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp; tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) và ngành công nghiệp chưa đạt chỉ tiêu đề ra. Quy hoạch và quản lý đô thị chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Kết cấu hạ tầng ngày càng quá tải, gây bức xúc cho nhân dân, cản trở sự phát triển kinh tế và cải thiện dân sinh. Chất lượng giáo dục - đào tạo và nguồn nhân lực chưa tương xứng với yêu cầu phát triển và hội nhập; khoa học - công nghệ chưa thật sự là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Một số vấn đề văn hóa - xã hội bức xúc chậm được khắc phục, phát triển y tế chưa đảm bảo nhu cầu điều trị bệnh của nhân dân, thể thao thành tích cao ngày càng suy giảm. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội còn diễn biến phức tạp; cải cách tư pháp còn hạn chế, chưa đồng bộ. Kết quả công tác xây dựng Đảng trên một số mặt còn hạn chế; xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh chưa đạt chỉ tiêu đề ra; hệ thống chính trị chưa đáp ứng kịp yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, nhất là “nỗ lực làm theo” chưa lan tỏa sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân. Đạt được những thành tựu trên là do: (1) Đường lối đổi mới toàn diện của Đảng; sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của Trung ương Đảng, Quốc hội; sự quản lý, điều hành năng động của Chính phủ trong khắc phục ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu; sự phối hợp, hỗ trợ của các bộ, ban, ngành Trung ương và các địa phương đối với thành phố. (2) Truyền thống cách mạng kiên cường, phấn đấu bền bỉ, năng động, sáng tạo của Đảng bộ và nhân dân thành phố; tiềm năng kinh tế và kinh nghiệm quản lý của thành phố trong những năm đổi mới. (3) Sự nỗ lực phấn đấu cao của các cấp ủy, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội, các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân thành phố. Nguyên nhân hạn chế, yếu kém: Về khách quan, các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật chưa đáp ứng quá trình phát triển, đô thị hóa của đất nước; chưa tạo điều kiện phát huy tiềm năng, lợi thế Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nhất là đối với một đô thị loại đặc biệt, có quy mô dân số khoảng 10 triệu dân trong tương lai gần; những hạn chế trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, các vùng; tình trạng đầu tư dàn trải, trùng lặp trong kinh tế đất nước; cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Về chủ quan, lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy chưa quan tâm đúng mức việc tổng kết sâu sắc thực tiễn, nâng tầm lý luận làm cơ sở đề ra chính sách có tính chiến lược để thực hiện tốt mục tiêu phát triển thành phố; chưa kiên trì kiến nghị với Trung ương bổ sung, điều chỉnh một số cơ chế, chính sách phù hợp với yêu cầu phát triển thành phố. Công tác quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền còn hạn chế; tổ chức thực hiện và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trên một số lĩnh vực chưa kịp thời; chỉ đạo thực hiện các chương trình mang tính đòn bẩy chưa quyết liệt. Công tác cán bộ chậm đổi mới, một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo trong 5 năm qua, rút ra một số kinh nghiệm. Thứ nhất: phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, truyền thống cách mạng kiên cường, phấn đấu bền bỉ, năng động, sáng tạo của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố trong thực hiện nhiệm vụ chính trị. Thứ hai: tăng cường công tác xây dựng Đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thường xuyên tự chỉnh đốn, đổi mới phương thức lãnh đạo; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng cường đoàn kết, tạo sự thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động trong toàn Đảng bộ; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng; thường xuyên chăm lo công tác cán bộ, đồng thời phải tăng cường kiểm tra, giám sát phòng ngừa sai phạm của tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên. Thứ ba: chăm lo thực hiện tốt công tác vận động nhân dân, mọi chính sách phải vì nhân dân, xuất phát từ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, giảm khoảng cách nghèo, giàu trong các tầng lớp dân cư. Thứ tư: nhận thức đúng vai trò, vị trí của thành phố đối với cả nước về yêu cầu bảo đảm giữ vững ổn định chính trị trong mọi tình huống là kinh nghiệm vừa mang tính thời sự, cấp bách, vừa cơ bản lâu dài. Thứ năm: kinh nghiệm thực tiễn trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, một mặt phải thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, mặt khác phải luôn nhạy bén, sáng tạo, bám sát thực tiễn, phát hiện, kịp thời và mạnh dạn giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong điều kiện có nhiều khó khăn, phức tạp. 2. Về mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển thành phố, xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị thành phố, đại hội nhất trí: Quán triệt Nghị quyết số 20-NQ/TW của Bộ Chính trị, phấn đấu xây dựng thành phố Hồ Chí Minh trở thành một thành phố xã hội chủ nghĩa văn minh, hiện đại; từ nay đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020, thành phố tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu toàn Đảng bộ; phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết; huy động nguồn lực, nâng cao chất lượng tăng trưởng, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, phát triển nhanh, bền vững, với mục tiêu tổng quát là: Tiếp tục đổi mới toàn diện và mạnh mẽ hơn nữa; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu toàn Đảng bộ; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; năng động, sáng tạo, huy động mọi nguồn lực, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân; bảo đảm quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội; làm tốt vai trò đầu tàu của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; đóng góp ngày càng lớn cho cả nước; từng bước trở thành một trung tâm công nghiệp, dịch vụ, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ của khu vực Đông Nam Á. 2.1 Chỉ tiêu chủ yếu 1. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) bình quân hàng năm 12%. 2. Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của ngành dịch vụ bình quân 13%/năm. 3. Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của ngành công nghiệp bình quân 11%/năm. 4. Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của ngành nông nghiệp bình quân 5%/năm. 5. Cơ cấu kinh tế năm 2015 (% trong GDP): dịch vụ: 57%, công nghiệp: 42%, nông nghiệp: 01%. 6. Tổng mức đầu tư xã hội 5 năm trên địa bàn thành phố đạt trên 1,4 triệu tỷ đồng. 7. Tốc độ tăng dân số tự nhiên bình quân hàng năm dưới 1,1%. 8. Hàng năm tạo việc làm mới trên 120.000 người. 9. Đến cuối năm 2015, tổng sản phẩm nội địa (GDP) bình quân trên đầu người đạt 4.800 USD. 10. Đến cuối năm 2015, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề đạt 70% trên tổng số lao động làm việc. 11. Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí thu nhập 12 triệu đồng/người/năm đến cuối năm 2015 cơ bản hoàn thành (còn dưới 2%). 12. Đến cuối năm 2015, đạt tỷ lệ 15 bác sĩ/10.000 dân. 13. Đến cuối 2015, tỷ lệ hộ dân đô thị được cấp nước sạch đạt 98%; hộ dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 100%. 14. Tổng diện tích nhà ở xây dựng mới trong 5 năm đạt 39 triệu m², diện tích nhà ở bình quân 17m²/người. 15. Đến cuối năm 2015, thu gom, lưu giữ, xử lý 100% chất thải rắn thông thường ở đô thị, chất thải rắn nguy hại, chất thải rắn y tế, nước thải công nghiệp và y tế; 100% khu công nghiệp, khu chế xuất và cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường Việt Nam. 16. Đến cuối năm 2015, hoàn thành xây dựng 25 xã nông thôn mới. 17. Hàng năm, có 75% cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh. 18. Đến cuối năm 2015, xây dựng tổ chức công đoàn trong 100% doanh nghiệp có đủ điều kiện; 70% doanh nghiệp ngoài Nhà nước có từ 500 lao động trở lên có tổ chức Đảng và tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. 2.2 Nhiệm vụ xây dựng, phát triển và bảo vệ thành phố (1) Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế a. Khai thác tốt nhất tiềm năng, lợi thế, tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) trên địa bàn hàng năm cao hơn 1,5 lần mức tăng trưởng bình quân của cả nước; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Chủ động tái cấu trúc kinh tế thành phố, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, từ chủ yếu phát triển dựa vào tăng vốn đầu tư, sử dụng nhiều lao động giản đơn sang phát triển dựa trên yếu tố năng suất tổng hợp, tiến bộ khoa học - công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao. Tiếp tục thúc đẩy phát triển 9 nhóm ngành dịch vụ: tài chính - tín dụng - ngân hàng - bảo hiểm; thương mại; vận tải, kho bãi, dịch vụ cảng - hậu cần hàng hải và xuất nhập khẩu; bưu chính - viễn thông và công nghệ thông tin - truyền thông; kinh doanh tài sản - bất động sản; dịch vụ thông tin tư vấn, khoa học - công nghệ; du lịch; y tế; giáo dục - đào tạo. Bảo đảm khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng và tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Tiếp tục tập trung phát triển 4 ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học - công nghệ và giá trị gia tăng cao: cơ khí, điện tử - công nghệ thông tin, hóa dược - cao su, chế biến tinh lương thực thực phẩm và các ngành công nghệ sinh học, công nghiệp sạch, tiết kiệm năng lượng, công nghiệp phụ trợ. Đầu tư hiện đại hóa ngành xây dựng sử dụng vật liệu mới, ứng dụng công nghệ xây dựng hiện đại; nâng tốc độ tăng trưởng của ngành xây dựng cao hơn tốc độ tăng trưởng các ngành công nghiệp. Phát triển nông nghiệp đô thị hiện đại, hiệu quả, bền vững; tăng cường ứng dụng công nghệ sinh học, công tác dự báo, tập trung sản xuất giống cây trồng, giống vật nuôi, rau an toàn, cây kiểng, cá kiểng. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược biển. Chỉ đạo xây dựng mô hình nông thôn mới văn minh, giàu đẹp. b. Tạo môi trường thuận lợi và bình đẳng để phát triển các thành phần kinh tế; tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp Nhà nước; bổ sung cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển, nâng cao chất lượng kinh tế tập thể với nòng cốt là các hợp tác xã; tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển; hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn vốn, thông tin công nghệ và thị trường. Phát triển đồng bộ 5 loại thị trường chính yếu: tài chính, hàng hóa - dịch vụ, công nghệ, bất động sản, lao động; đổi mới, nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý Nhà nước trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát huy vai trò của thành phố trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. c. Huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đặc biệt là phát huy đội ngũ trí thức để khoa học - công nghệ thực sự là động lực nâng cao chất lượng tăng trưởng; bổ sung cơ chế, chính sách ưu tiên thu hút đầu tư vào công nghiệp công nghệ cao, công nghệ sạch; đẩy mạnh chương trình hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ưu tiên cho những ngành, lĩnh vực có lợi thế so sánh, tiềm năng phát triển, các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao. Phát triển thương mại điện tử; các mô hình phân phối, giao dịch hiện đại vào hoạt động thương mại. Quy hoạch phát triển trung tâm hội chợ triển lãm thương mại có tầm cỡ khu vực. (2) Phát triển đô thị bền vững Tập trung xây dựng, tạo bước đột phá về hệ thống kết cấu hạ tầng. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác quy hoạch, thiết kế đô thị, quản lý quy hoạch - kiến trúc, quy hoạch xây dựng nông thôn mới, quản lý đô thị. Có cơ chế, chính sách khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu đô thị mới (Thủ Thiêm, Tây Bắc, Cảng Hiệp Phước) và các chương trình đột phá để giải quyết vấn đề bố trí dân cư và nhà ở cho nhân dân, giảm tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông, giảm ngập nước, giảm ô nhiễm môi trường, gắn với mục tiêu kiểm soát quy mô dân số khoảng 10 triệu người. Nâng cao chất lượng các dịch vụ đô thị theo hướng xã hội hóa. Chủ động phối hợp với các bộ - ngành Trung ương và các địa phương liên quan xây dựng hệ thống đường sắt đô thị, phát triển đường vành đai, đường trên cao, đường cao tốc, luồng tàu đường biển, đường sông; cấp nước, thoát nước, chống ngập, xử lý chất thải, hạ tầng năng lượng và hạ tầng viễn thông... kết nối với kết cấu hạ tầng các tỉnh trong Vùng thành phố Hồ Chí Minh, đồng bằng sông Cửu Long, Nam Tây Nguyên. Ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn; hỗ trợ nhà ở, việc làm và các điều kiện sinh sống cho dân cư các địa bàn đô thị hóa. Tiếp tục phát huy và mở rộng các hình thức xã hội hóa đầu tư kết cấu hạ tầng. Khai thác có hiệu quả quỹ đất đô thị để tạo nguồn vốn đầu tư. Tăng cường quản lý ao, hồ, kênh, rạch, bảo vệ tài nguyên, môi trường sinh thái; đẩy mạnh xã hội hóa, huy động các nguồn lực tham gia bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng và hạn chế tác hại của biến đổi khí hậu và nước biển dâng. (3) Phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, xây dựng văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, bảo đảm chính sách an sinh xã hội a. Xây dựng nền giáo dục tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Tiếp tục đổi mới, phát triển, nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục và đào tạo, đặc biệt coi trọng giáo dục truyền thống, lý tưởng, đạo đức, lối sống, ý thức trách nhiệm xã hội, năng lực sáng tạo. Phát huy vai trò gia đình phối hợp với nhà trường, xã hội để giáo dục thế hệ trẻ. Đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư xây dựng hệ thống trường lớp theo quy hoạch; mở rộng liên kết đào tạo, tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với các cơ sở đào tạo ngoài công lập và nước ngoài. Tiếp tục duy trì kết quả chống mù chữ; phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi, giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và phổ cập bậc trung học, thực hiện phổ cập ngoại ngữ, tin học cho học sinh phổ thông. Thực hiện có kết quả chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học - công nghệ, doanh nhân và lao động kỹ thuật; khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. b. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học - công nghệ theo thẩm quyền, gắn kết giữa các cơ sở nghiên cứu, đào tạo và sản xuất - kinh doanh. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn làm cơ sở xây dựng các chính sách phát triển, quản lý đô thị, xây dựng văn hóa và giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội. Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ. Tăng đầu tư để phát triển khoa học - công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và xây dựng những trung tâm khoa học công nghệ tiêu biểu. Chủ động tham gia các chương trình nghiên cứu quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Có chính sách bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng các chuyên gia khoa học - công nghệ trong và ngoài nước. c. Phát triển văn hóa theo hướng văn minh, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và các giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của nhân dân thành phố; kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa; đầu tư xây dựng Nhà hát giao hưởng - nhạc vũ kịch, Bảo tàng thành phố, Nhà thiếu nhi thành phố (cơ sở 2), nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế, công trình văn hóa; định hướng, hỗ trợ sáng tác các tác phẩm văn học - nghệ thuật tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu tính nhân văn; không ngừng nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân. Tiếp tục hoàn thiện quy hoạch báo chí, xuất bản; nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, phê bình, hoạt động thông tin, tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội; tập trung đào tạo, xây dựng đội ngũ quản lý báo chí, phóng viên, biên tập viên có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực, nghiệp vụ giỏi. Tăng cường quản lý, đấu tranh có hiệu quả hoạt động lợi dụng mạng internet truyền bá tư tưởng phản động, lối sống thực dụng, bạo lực, trái đạo lý. Đẩy mạnh phát triển ngành y tế, các chương trình quốc gia về chăm sóc sức khỏe, các chương trình y tế chuyên sâu, y tế dự phòng; ngành dược và đông y. Tiếp tục củng cố, hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, đẩy mạnh xã hội hóa, mở rộng diện bảo hiểm y tế, chăm lo sức khỏe nhân dân, đặc biệt đối với người nghèo; tập trung xây dựng, phát triển khu y tế kỹ thuật cao, các trung tâm y tế chuyên sâu và một số bệnh viện tại các cửa ngõ thành phố. Thực hiện nghiêm chính sách, pháp luật về dân số. Củng cố tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý và các liên đoàn thể thao; tập trung xây dựng Khu liên hợp thể thao Rạch Chiếc; có chính sách đào tạo và thu hút huấn luyện viên giỏi, vận động viên có thành tích cao, triển vọng; chú trọng đầu tư phát triển thể thao học đường, phong trào luyện tập thể dục - thể thao trong cộng đồng. d. Giải quyết kịp thời các vấn đề xã hội bức xúc, nhất là lao động, việc làm, bồi thường, tái định cư; đẩy mạnh chương trình giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao chất lượng sống của nhân dân. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công và các đối tượng bảo trợ xã hội; kéo giảm chênh lệch mức sống, hưởng thụ văn hóa giữa các tầng lớp dân cư, giữa đô thị và nông thôn. (4) Bảo đảm quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các nghị quyết về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong tình hình mới; chủ động đấu tranh, đập tan mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; gắn nhiệm vụ phát triển

Nguồn SGGP: http://sggp.org.vn/chinhtri/2010/10/239651/