Ngày xuân ăn chạ

Ăn chạ là lễ thiêng và ngày hội của hai làng. Khi mùa màng, Tết nhất đã xong, đình làng, ngõ xóm được dọn quang quẻ là lúc chuẩn bị ăn chạ.

Bắt đầu từ một câu chuyện truyền tụng lâu đời mà làng tôi, mường Denh và làng Tray- hai làng người Mường nhỏ - bên sông Mã kết tình anh em, từ xưa tới nay vẫn giữ lời nguyền chỉ là tình thân, trai gái hai làng không được yêu, không được lấy nhau.

Theo lời kể của người già trong làng, từ xưa lắm con sông Mã uốn dòng vào làng tôi tạo nên một vực xoáy, thuyền bè qua lại đều bị quấn vào và nuốt chửng. Tương truyền, con thủy quái dưới vực đã tác quái, hại người. Trai tráng hai làng phải gắng sức mới đánh bắt được thủy quái. Cuộc hợp sức đó để lại lời nguyền: Hai làng là anh em, muôn đời không được gây thù oán hoặc kết giao thông gia. Lệ làng từ hàng trăm năm nay vẫn vậy. Hai làng chọn ngày 12 tháng Giêng âm lịch hàng năm ăn Tết chung, gọi là ăn chạ.

Ảnh: Bùi Nỏm

Tết ăn chạ (*) sẽ luân phiên cho hai bên.

Ăn chạ là lễ thiêng và ngày hội của hai làng. Khi mùa màng, Tết nhất đã xong, đình làng, ngõ xóm được dọn quang quẻ là lúc chuẩn bị ăn chạ.

Khi đến phiên làng tổ chức, trước đó một năm làng đã bổ đinh mỗi suất nam trong nhà đóng tiền và nếp cho làng. Nếp để làm xôi, bánh, tiền để lo mua lễ, thuê ông ậu và sắm đồ tế lễ. Trước đó, mấy sào đất trước làng gọi là Mổ lớn được dọn sạch cỏ, các khuôn viên tế lễ,xới chơi được trang trí. Ngày 11 tháng Giêng chủ tế làm lễ xin động thổ, chọn trai tân khỏe đẹp chuẩn bị chỗ đặt bài vị thổ thần cho ngày mai.

Sáng sớm ngày 12 tháng Giêng, trong tiếng trống chiêng báo tin vui, trên bãi sông hoa cải rờn rợn trong gió xuân, in vàng xuống mặt sông, bãi dâu tằm cũng vào thì tỏa tán xanh rờn, lá vẫy trong gió xuân, đoàn quan viên làng chỉnh tề lễ phục màu vàng, khăn sếp đỏ đi theo hàng về phía bến sông đón đoàn quan anh làng Tray sang lễ và ăn chạ. Tiếng chiêng, trống, sắc áo rực rỡ trong sớm xuân đầy hứng khởi và chờ đợi. Khi đoàn thuyền làng bên cập bến, trang trọng trong sắc áo tím, khăn đen lên dốc sông, hai bên tay bắt mặt mừng, hai làng đều gọi nhau là quan anh, xưng em. Câu hát câu xường chào, mời nhau chén rượu lễ gặp mặt, hai bên cùng lên đình chấp lễ. “Nhà tạo chiếu ngang, nhà lang chiếu dọc” đã trải ngay ngắn, người chủ tế dẫn dắt việc dâng cỗ, thượng hương, châm tửu, sau mỗi lời nhắc, một tiếng “phèng” đáp. Xong ba lần điểm, chủ tế bắt đầu khấn “Đại Nam quốc, Thanh Hóa tỉnh, Cẩm Thủy huyện, Cẩm Bình xã”…sau khi xin âm dương biết thánh đã nhập vị, mâm cỗ đặt trên bàn án thư đi trước, chủ tế đội bài vị và hai người đi chầu hai bên; bên trái trống, bên phải chiêng gióng nhịp đi về phía Mổ lớn hành lễ.

Lễ tế trang trọng có đầu lợn cắp đuôi đặt trên cỗ xôi lớn diễn ra vừa tàn tuần nhang. Phần hội bắt đầu. Các trò chơi dân gian được người chủ tế cho phép về sới. Các chị ném còn, đu dây, đánh mảng. Trong lúc quả còn tung lên một câu ca, một điệu cười cũng vang theo trong đám trai làng gái bản. Bọn trẻ chơi khăng, đánh cù. Trai tráng vào sới vật. Trong trò chơi hay thi đấu nhất nhất đều trọng nể, không ăn thua, coi được vui là phần thưởng. Các trò chơi được diễn ra khi chiêng trống hội cứ bung binh rộn rã, âm vang những giai điệu thanh bình.

Việc ăn cỗ ngày chạ để lấy may, làm lệ chứ không trọng phải linh đình, no nê. Mọi chị phí tổ chức được lấy từ quỹ đinh (**) của làng. Ai cũng dùng lời vui, ý hay để đối đãi với nhau, không khí anh em, bè bạn được hội ngộ, tương giao hào hứng như món quà mùa xuân. Họ chúc nhau năm mới an lành, ăn nên làm ra, tình nghĩa thuận hòa.

Lễ chạ kết thúc bằng việc chia tay và đưa tiễn làng anh ra thuyền sang sông. Những lời chào giã biệt, hẹn hò, những câu xường chúc tụng “thương thiết thương nồng” lan trên mặt nước sông khói sương. Đoàn đưa tiễn đứng mãi nơi bến, trống chiêng trống dàm vọng mãi cho đến lúc đoàn làng anh sang sông, lên bờ, những bàn tay vẫy chào lưu luyến như không muốn rời.

Tục ăn chạ của làng tôi chỉ được tham dự trong hình dung qua những câu chuyện của mẹ tôi, của cậu người em họ hơn tuổi của mẹ tôi kể lại. Ngôi đình thiêng của làng nay chỉ còn những thớt đá kê cột trên khoảng đồi đất sau làng. Ngôi đền đã gắn với đời sống tâm linh của làng tôi. Già làng kể, đền thiêng lắm, xưa quan lang đi ngang qua phía dưới đền phải xuống ngựa, dân thường đi qua phải ngả nón mũ tỏ lòng thành kính. Ngôi đền ấy đã từng là nơi họp bí mật của tổ Đảng đầu tiên của xã tôi. Trong thời kỳ chín năm, vào năm 1952, đình làng tôi đã là nơi hội họp bí mật của Ban chỉ huy của một đơn vị bộ đội. Cũng vì thế mà lần kẻ chỉ điểm đã khiến máy bay Pháp bắn đình làng, làm 10% số dân trong làng tôi thiệt mạng và nhiều trâu bò bị trúng bom, nhà cháy. Ngôi đình một thời gắn với lễ hội, tâm linh của làng thành một di tích tang thương. Sau cách mạng, đền cũng bị phá bỏ. Ngôi đền chỉ còn lại nền đất và ít tảng đá kê cột.

Trong câu chuyện xưa về niêm vui và nỗi đau, trong khát vọng khôi phục những nét đẹp văn hóa của làng, anh Phạm Văn Hưng, người am tường văn hóa Mường, tự nguyện hiến ba sào phần đất đồi trong chương trình vườn đồi của gia đình tha thiết muốn khôi phục lại ngôi đình. Người bạn cùng tuổi của tôi là anh Phạm Văn Lương, Bí thư thôn cũng gật gù tán đồng khi trao đổi về ý nguyện muốn khôi phục ngày ăn chạ, kết lại tình nghĩa thiêng của hai làng vẫn trân trọng và gìn giữ bấy nay. Trong không khí nông thôn đổi mới, việc khôi phục nét đẹp xưa sẽ làm cho làng xã gắn bó hơn, tốt lành hơn.

Trong hơi khí ngày đầu Đông, chúng tôi đứng trên bến nhìn ra bờ sông bên làng quan anh với con đường ven bờ sông thấp thoáng sau bóng cây nay đã liên thôn trải nhựa, dưới bóng dãy núi chạy dài cao ngất xanh màu rừng tái sinh mỗi người hồi tưởng và theo đuổi một ý nghĩ. Tôi cứ nghe đâu đây âm vang bên vách núi tiếng trống chiêng, trống dàm và những con thuyền chở đoàn người mặc sắc phục tím, đội khăn sếp đen của làng quan anh đang hướng về phía bờ tôi đứng như sắp cập bờ…

Cẩm Thủy, trước mùa ăn chạ 2023

Bút ký của Khánh Trang

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/ngay-xuan-an-cha-239589.html