Một người con của sông La

“Sinh ra ở đâu mà ai cũng anh hùng?/Tất cả trả lời: Sinh bên một dòng sông”, câu thơ có vẻ “võ đoán” ấy của thi sĩ Bế Kiến Quốc hóa ra lại rất đúng với trường hợp sông La. Con sông chỉ dài có 12,5 km, nằm trọn trong huyện Đức Thọ (Hà Tĩnh), mấy chục cái làng nhỏ hai bên bờ, thì làng nào, thời nào cũng nảy sinh người hiền tài có công với nước.

GS.Diệu (thứ 4 từ trái sang) và em trai là TS.Trần Vĩnh Hưng cùng một số sĩ quan
không quân ở sân bay Kép, phía sau là nhà vòm chứa máy bay MIG-21(năm 1997).

Có thể kể tên những danh sĩ thời trước, như Nguyễn Biểu, tiến sĩ cuối đời Trần, quê làng Bình Hồ làm quan đến Ngự sử. Khi quân Minh xâm lược nước ta ông phò vua Trần Trùng Quang đánh giặc. Bùi Dương Lịch tiến sĩ triều Lê, người làng Yên Hội, nổi tiếng kiến thức bách khoa, là nhà thơ, nhà địa lý, nhà sử học đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị. Phan Đình Phùng người làng Đông Thái, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Hương Khê trong phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX…Thời nay, dòng La tiếp tục sinh ra nhiều nhân tài: Phan Anh, luật sư, nhà chính trị; Hoàng Xuân Hãn nhà toán học, sử học; Lê Thước nhà Hán học; Hoàng Ngọc Phách, nhà văn; Đào Vọng Đức, nhà vật lý…Và một vị tôi muốn viết đôi điều về những đóng góp cho khoa học của ông hôm nay là nhà hóa học Trần Vĩnh Diệu.

Ông kể với tôi rằng, Đức Tùng nơi ông sinh ra ngay sát dòng sông La. Kháng chiến toàn quốc năm 1946, cha ông đi làm cách mạng lên chiến khu Việt Bắc, rồi hy sinh ở đó. Mẹ ở nhà vất vả nuôi đàn con, ông là con cả ngày bé đi cào hến trên sông, rồi cày ruộng, làm nón, nấu kẹo lạc…giúp mẹ. Năm 1950 cậu bé Diệu 12 tuổi được vào học trường thiếu sinh quân Liên khu IV. 6 năm sau anh thi đậu vào khóa 1 Đại học Bách khoa Hà Nội(ĐHBK), một chân trời khoa học mở ra từ đây. Vốn yêu toán và vật lý, song Trần Vĩnh Diệu lại được phân công học ngành hóa kỹ thuật, dù sao với kiến thức cơ bản vững, lại cần cù, siêng năng ngay từ đầu anh đã trong số những sinh viên ưu tú của lớp. Khóa đầu tiên học có 3 năm(từ khóa 2 trở đi học 5 năm), thế là anh được chọn cùng một số sinh viên giỏi khác sang Liên Xô học tiếp 3 năm nữa, vào trường hóa kỹ thuật danh tiếng nhất nước bạn ngày ấy, mang tên nhà hóa học thiên tài Menđêlêep. Năm 1962, anh tốt nghiệp với tấm bằng đỏ và về lại ĐHBK giảng dạy ở bộ môn hợp chất cao phân tử (polime). 4 năm sau, anh trở lại trường cũ làm nghiên cứu sinh phó tiến sĩ(nay là TS). Năm 1969, anh hoàn thành xuất sắc luận văn phó tiến sĩ “Nghiên cứu động học và cơ chế phản ứng của các hợp chất monoepoxy với axit cacboxylic”. Trong giai đoạn nghiên cứu đầu đời, anh có phát hiện mới về một loại hợp chất cao phân tử có nhiều đặc tính quý báu có trong cây sơn ta, để rồi 9 năm sau cũng tại trường Menđêlêep anh nhận học vị tiến sĩ (nay là TSKH). Công trình của anh được viện sĩ V.Korsak, một thành viên trong hội đồng chấm luận văn đánh giá là “…rất đặc sắc về mặt khoa học, và là đóng góp quý báu vào sự phát triển ngành hóa học”; còn người thầy đầu tiên hướng dẫn luận văn phó tiến sĩ, GS.Sorokin thì vui mừng nhận xét: “Trần Vĩnh Diệu mở ra một hướng đi mới cho ngành polime ở Việt Nam”. Đúng như lời tiên đoán của thầy, sau này các nghiên cứu của GS. Trần Vĩnh Diệu đều có “hơi hướng” từ những nghiên cứu khoa học đầu đời của ông.

Trung tâm nghiên cứu vật liệu polime do GS.Diệu làm giám đốc ngay sau khi ra đời đã đặt trọng tâm vào nghiên cứu loại vật liệu polime composite sử dụng nguyên liệu trong nước. Và một trong những đơn vị đầu tiên đặt hàng nghiên cứu ứng dụng loại vật liệu mới này là Quân chủng Không quân.

Composite, là loại vật liệu được tạo ra từ hai hay nhiều loại vật liệu khác nhau, nhằm tạo ra vật liệu mới có tính năng hơn hẳn loại ban đầu. Nó có lịch sử hình thành và phát triển hàng vài nghìn năm về trước, khi trong khảo cổ học người ta đã tìm thấy đồ gốm composite gồm bột đá cộng đất sét, hay các loại thuyền của người xưa đan bằng tre trát mùn cưa, lau sậy tẩm pitum, nhựa thông… Vào những năm giữa thế kỷ XX, một trong những ứng dụng hiệu quả nhất của loại vật liệu này là polime composite sợi thủy tinh, có nhiều ưu việt như: độ bền cao, chịu được môi trường khắc nghiệt, dễ chế tạo, lắp đặt.

Làng quê của GS.Trần Vĩnh Diệu bên bờ sông La.

Tuy là loại vật liệu quen thuộc với nhiều nước trên thế giới, nhưng polime composite gia cường sợi thủy tinh đối với Việt Nam thì chưa được nghiên cứu nhiều. Nhóm của Trung tâm polime ĐHBK do GS.Diệu đứng đầu khi nhận được đơn hàng của Quân chủng Không quân cùng một lúc phải giải quyết 2 vấn đề kỹ thuật hóc búa là: thành phần hỗn hợp của vật liệu trong đó phải ưu tiên sử dụng nguyên liệu sẵn có trong nước để hạ giá thành mà không ảnh hưởng đến độ bền công trình; lựa chọn thiết kế kết cấu vòm, cùng cách định vị thế nào để cứng vững, dễ chế tạo, vận chuyển, lắp đặt…Sau 1 năm nghiên cứu tìm hiểu các phương án, Trung tâm đã thử nghiệm trên 1500 mẫu và phải 4 lần thay đổi kết cấu mới hoàn thiện được bản thiết kế kỹ thuật. Riêng việc dùng phụ gia là một hợp chất rẻ tiền trong khoan thăm dò dầu khí đã làm giảm được 40% giá thành, lại tăng sức bền vật liệu lên 30%. Trong quá trình thiết kế, thi công có sự hợp tác chặt chẽ của Trung tâm công nghệ CAD/CAM Đại học Giao thông vận tải, mà người đứng đầu chính là em ruột của GS.Diệu: TS Trần Vĩnh Hưng. Đến tháng 9- 1995, Trung tâm chính thức thực hiện dự án số 28-95/HĐKHCN “Chế tạo các loại nhà vòm kích thước lớn kết cấu đặc biệt bằng vật liệu polime composite”.

Về thực chất là chế tạo nhà vòm che máy bay MIG-21 có kích thước cao 6 m,chiều rộng chân 12 m, dài 17 m. Do đã được chuẩn bị kỹ từ trước về công nghệ và thiết kế mà việc chế tạo, lắp đặt 29 nhà vòm cho dự án này tại sân bay Kép được thực hiện khá nhanh gọn, đạt kết quả tốt. Qua sử dụng cho thấy hiệu quả rõ rệt trong việc bảo quản chống xuống cấp cho máy bay, bảo đảm chế độ duy tu bảo dưỡng máy bay cũng như sức khỏe của kỹ sư, phi công và công nhân làm việc, trực chiến tại sân bay. Từ thành công ban đầu, Trung tâm nghiên cứu của GS. Diệu tiếp tục thực hiện dự án mới chế tạo loại vòm cho máy bay SU-B có kích thước lớn hơn(8X16X25m) và cũng đã thành công như mong đợi. Bên cạnh đó Trung tâm còn chế tạo loại vòm che tháp pháo xe tăng bảo vệ bờ biển, loại vòm này kích cỡ nhỏ hơn của máy bay phản lực để bảo đảm thao tác thuận tiện trong bảo quản và huấn luyện, chiến đấu. Tổng cộng riêng số nhà vòm cho máy bay phản lực, trong 3 đợt ký hợp đồng, Trung tâm nghiên cứu do GS.Trần Vĩnh Diệu đã chế tạo, lắp đặt được 53 cái trên 4 sân bay ở các tỉnh phía Bắc. Như vậy trong các năm từ 1987 đến 1997 Trung tâm polime ĐHBK đã thực hiện thành công 2 đề tài cấp Nhà nước và 3 dự án triển khai công nghệ một cách thông đồng bén giọt, hoàn trả tiền dự án cho Bộ KH&CN sòng phẳng, đúng luật định. Đây cũng là thời kỳ ăn nên làm ra nhất của Trung tâm. Đến giờ GS.Diệu vẫn nhớ một kỷ niệm về buổi đầu Bộ Tư lệnh Không quân gặp mặt cán bộ Trung tâm, đặt hàng chế tạo nhà vòm. Trung tướng, tư lệnh, anh hùng không quân Phạm Thanh Ngân tuy tin tưởng vào khả năng chất xám của các nhà khoa học trường ĐHBK, song ông vẫn còn phân vân chưa hiểu được loại vật liệu mới thay thế thép, bê tông ấy, khi thấy nó khá là “mỏng mảnh”(độ dầy vòm có từ 6-10 mm). Rồi một lần, nhóm nghiên cứu đưa ông xem mẫu là một dạng “mô-đun” của vòm, ông đã thử sức bền bằng cách đứng cả người lên mẫu, thấy không chút biến dạng, ông mới yên tâm phần nào. Trong quá trình sau này thực hiện dự án, Tư lệnh Phạm Thanh Ngân đã chuyển sang cương vị mới là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, ông vẫn quan tâm theo dõi quá trình thực hiện dự án. Ngày hoàn thành, bàn giao công trình ông đã về dự, có những lời biểu dương, khích lệ cao đối với tập thể làm đề tài và cá nhân người chủ trì.

Từ năm 1986 đến khi nghỉ hưu, GS.Trần Vĩnh Diệu đã chủ trì 5 đề tài và 4 dự án cấp Nhà nước đều được hội đồng nghiệm thu đánh giá xuất sắc. Ngoài công trình nghiên cứu chế tạo nhà vòm bằng polime composite, trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy tại ĐHBK Hà Nội ông còn có nhiều đề tài nghiên cứu khác có giá trị cả về lý thuyết và thực tiễn như: Điều chế sơn chống ăn mòn trên cơ sở epoxy để dùng cho các bồn chứa thực phẩm; Chế tạo gối cầu cao su cốt bản thép; Chế tạo hệ thống mục tiêu bay dùng cho huấn luyện pháo cao xạ, tên lửa; Chế tạo trần polime composite cho toa xe lửa thế hệ 2… Ngoài giải thưởng khoa học công nghệ quốc gia VIFOTEC cho đề tài nhà vòm, ông còn được nhận giải thưởng của Hội Kỹ sư châu Á năm 1997 và năm 2000 được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới.

Phạm Quang Đẩu

Nguồn Đại Đoàn Kết: http://daidoanket.vn/tinh-hoa-viet/mot-nguoi-con-cua-song-la/104750