Làm ăn gì năm 2017?

Các cơ quan quản lý, các chuyên gia kinh tế, doanh nhân uy tín bàn luận về triển vọng kinh tế 2017, nhất là trong bối cảnh Hiệp định TPP chưa được thông qua, để từ đó dự báo về triển vọng các kênh đầu tư: Vàng, ngoại tệ, chứng khoán, bất động sản...

(F5 để tiếp tục cập nhật)

Để nhìn lại một năm 2016 sắp qua và những triển vọng cho năm 2017 sắp tới, BizLIVE tổ chức tọa đàm BizTALK thường niên “Làm ăn gì năm 2017?” tại Trung tâm Hội nghị quốc tế, FLC Sầm Sơn Beach & Golf Resort, Thanh Hóa.

BizTALK có sự tham dự của các diễn giả:

- TS. Nguyễn Tú Anh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước

- TS. Nguyễn Đức Kiên, Phó chủ nhiệm Ủy ban kinh tế Quốc hội

- TS. Nguyễn Thành Long, Chủ tịch Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội.

- GS.TSKH Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE)

- TS. Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), thành viên Hội đồng Chuyên gia BizLIVE

- TS. Võ Trí Thành, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM)

- PGS.TS. Ngô Trí Long, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý giá (Bộ Tài chính)

- Luật sư Trương Thanh Đức, Chủ tịch Công ty Luật Basico

- TS. Nguyễn Trí Hiếu, Chuyên gia tài chính

- TS. Hương Trần Kiều Dung, Tổng giám đốc Tập đoàn FLC

- Ông Khúc Văn Họa, Phó tổng giám đốc TPBank, Giám đốc Khối Ngân hàng Doanh nghiệp

- Ông Phạm Thanh Hưng, Phó chủ tịch HĐQT Cengroup

- Ông Hồ Bảo Hùng, Giám đốc bộ phận Định giá & phân tích tài chính, Savills Hà Nội

- Ông Đặng Văn Quang, Giám đốc đại diện JLL Việt Nam tại Hà Nội

- Ông Nguyễn Đức Hùng Linh, Giám đốc Phân tích và tư vấn đầu tư khách hàng cá nhân Công ty Chứng khoán SSI

- TS. Lê Đức Khánh, Giám đốc Chiến lược đầu tư Công ty Chứng khoán Maritime

- Ông Lê Tiến Đông, Phó tổng giám đốc CTCK Artex

- Ông Phạm Anh Tuấn, Tổng trưởng ban kế hoạch chiến lược Toyota Việt Nam

Phát biểu mở đầu, ông Nguyễn Anh Tuấn – Tổng biên tập Báo điện tử BizLIVE.vn khẳng định đây là thời điểm để chúng ta nhìn lại nền kinh tế Việt Nam trong năm qua và đưa ra dự báo trong năm tới. Một loạt câu hỏi đang được đặt ra, và đâu là cơ hội kinh doanh cho họ, chứng khoán, bất động sản, hay tiền tệ… trong bối cảnh tình hình thế giới cũng đang có những phức tạp như bầu cử tổng thống Mỹ, Brexit, các đối tác của Việt Nam cũng đang có những biến đổi về tình hình chính trị như Hàn Quốc, trong khi đó cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư đang diễn ra.

Cuộc tọa đàm diễn ra trong 3 phiên:

- Phiên 1: Nhìn lại năm 2016 và dự báo kinh tế năm 2017

- Phiên 2: Thảo luận lĩnh vực ngân hàng và chứng khoán

- Phiên 3: Triển vọng và cơ hội đầu tư trong lĩnh vực bất động sản.

PHIÊN 1: Nhìn lại năm 2016 và dự báo kinh tế năm 2017 do TS. Võ Trí Thành điều phối nội dung.

TS. Võ Trí Thành: Cách đây 2 tuần, hội nghị cấp cao APEC 2016 diễn ra tại Peru không khí “hơi buồn”, những quan ngại, sự bất định, đánh giá khác nhau trước việc ông Donald Trump thắng cử. Thứ 2, một số nước gặp vấn đề nội bộ khó khăn, nên lãnh đạo cấp cao một số nước không tham dự. Thứ 3, chưa bao giờ bức tranh kinh tế “u ám” như bây giờ.

TS. Võ Trí Thành điều phối Phiên 1

Hội nghị APEC có 4 câu chuyện bàn là vấn đề tăng trưởng bền vững, sáng tạo; thứ hai, bao trùm, làm sâu sắc hóa quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; thứ ba là doanh nghiệp nhỏ và vừa trong kỷ nguyên số hay nói cách khác gần với cách mạng Công nghiệp lần 4 và vấn đề biến đổi khí hậu.

Bối cảnh kinh tế vĩ mô, vấn đề tăng trưởng, cân đối lớn vĩ mô, lạm phát cải cách cơ cấu và con đường tiếp theo của Việt Nam, liên quan đến các FTA, tài khóa ngân sách và nợ công của Việt Nam. Câu chuyện hôm nay cũng như vậy, nên rất mong bên cạnh vấn đề vĩ mô cuối cùng quay lại gắn với câu hỏi “Làm ăn gì năm 2017?”, đây là đầu đề rất hay.

TS. Lê Đăng Doanh: Tôi thấy năm 2016 là năm có bước ngoặt với Việt Nam về nhiều mặt. Một là, chưa có chính phủ mới nào mới lên mà dồn dập gặp nhiều khó khăn như Chính phủ này từ Formosa, lũ lụt… Tất cả diễn biến như vậy là thách thức lớn nhưng có thể nói là Chính phủ đã đưa ra quyết sách lớn, năm nay có khoảng 100.000 doanh nghiệp mới thành lập, có quyết sách mới tái cơ cấu.

TS. Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM)

Làm ăn gì năm 2017? Theo tôi, trước hết phải thúc đẩy cổ phần hóa. Chứng khoán sẽ chứng kiến sự sôi nổi trong năm tới. Chính những khó khăn thúc đẩy Chính phủ có bước tiến mới. Cổ phần hóa có thêm nhà đầu tư, công khai minh bạch và sức ép lớn phải niêm yết - là cơ hội lớn của thị trường chứng khoán.

Năm 2016 thách thức là chi phí logistic từ Việt Nam cao, một container từ EU về Việt Nam mất 300 USD nhưng từ Hải phòng về Hà Nội mất 400 USD.

Ngoài ra, cơ hội với ngành dịch vụ là rất lớn. Tỷ lệ người già ở cả Việt Nam và thế giới đang tăng lên, họ cần dịch vụ và chăm sóc đặc biệt. Tôi thấy mảng đó trên thị trường rất yếu. Tôi có một người bạn có một bà mẹ bị ốm trong thời điểm cuối năm, giá cho một người chăm sóc như vậy là 1 triệu/ngày. Đây là mức giá quá cao.

Theo tôi đánh giá thì năm 2017 là một năm thuận lợi. Môi trường quốc tế quanh Việt Nam đang có sự thay đổi nên phải tỉnh táo. Nếu có sự thay đổi lãi suất, USD sẽ quay lại nước Mỹ. Ngoài ra đồng Nhân dân tệ đang mất giá và hàng hóa Trung Quốc đang rẻ và đây là điều bất lợi với chúng ta.

Ngoài ra Donald Trump đắc cử, chúng ta thấy ông này là một “cao thủ”. Những chính sách với Trung Quốc và Đài Loan sẽ khiến chúng ta phải theo dõi.

Cũng xin báo cáo Mỹ đang nợ Liên Hiệp Quốc 1,1 tỷ USD. Tóm lại, chính trong khó khăn lại tạo cơ hội cải cách cơ hội để đầu tư.

Ông Võ Trí Thành: Tôi xin tóm tắt lại ý kiến của TS. Doanh, hiện nay tình hình kinh tế thế giới thì phức tạp, trong khi các điều kiện tại Việt Nam cũng rất khó khăn, tuy nhiên, cũng cơ hội mở ra rất nhiều, đặc biệt là đối với cổ phần hóa, tạo điều kiện cho các lĩnh vực dịch vụ phát triển.

Ông Nguyễn Đức Kiên: Như TS. Nguyễn Anh Tuấn vừa nói, 2016 là một năm rất đặc biệt, cả trong và ngoài nước. Đây là năm mà chúng ta vừa thay đổi bộ máy lãnh đạo của đất nước, trong khi các yếu tố chính trị ở khu vực tác động vào nền kinh tế kinh khủng nhất, thiên nhiên thử thách chúng ta nhiều nhất.

Năm 2016, những bài toán đặt ra từ những năm trước vẫn còn ngổn ngang, như tái cơ cấu ngân hàng, cổ phần hóa danh nghiệp nhà nước.

TS. Nguyễn Đức Kiên, Phó chủ nhiệm Ủy ban kinh tế Quốc hội

Thứ nhất, biến đổi khí hậu chúng ta không tự gây ra tình trạng ngập mặn chúng ta xử lý không tốt. Khu vực sông Mê Kông bị ngăn nước lại nên áp lực ở cửa sông nhỏ, ngập mặn là tất yếu.

Khi nhìn lại cơ cấu của nền kinh tế, chưa bao giờ 63% lực lượng nông nghiệp mất ổn định và mong manh đến thế.

6 tháng đầu năm, phát triển nông nghiệp là âm 0,1%, nhưng từ tháng 7, mưa thuận gió hòa, nông nghiệp tăng trưởng trở lại 0,68%.

Như vậy có thể thấy, nền kinh tế bất định phụ thuộc vào thời tiết, điều kiện tự nhiên. Nói là thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, nhưng bản thân cơ cấu không thay đổi nhiều.

Nông nghiệp đóng góp 17-18% GDP của năm 2016. Với đóng góp như thế mà tác động như vậy thì phải thấy cơ cấu nền kinh tế còn nhiều việc ngổn ngang.

Xuất khẩu nói là tăng nhưng chủ yếu ở khối dệt may. Nông nghiệp thì thủy sản tăng 1,8-1,9%, đồ gỗ thì hơn nhưng nói đến đồ gỗ thì hoàn toàn không phải công nghiệp mà nhập về, chế tác, thủ công thôi, gắn liền với phá rừng.

Cuối cùng, năm 2016, khi mà xuất khẩu giá trị nhiên liệu giảm 28-29% giá trị thì tăng trưởng công nghiệp so với năm ngoái từ gần 10% xuống còn 7,4%. Nói chiều rộng sâu thì vẫn còn nguyên đó bộn bề.

Năm 2017, góc độ người làm nghiên cứu, đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa cực kì nhiều cơ hội. Với chủ trương đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn thì có nhiều đất tham gia vào ngành, lĩnh vực trước là lĩnh vực đặc thù của nhà nước.

Phải đấu tranh thoái vốn Nhà nước thì để Nhà nước tối đa còn nắm 30%. Phải đối chiếu lại Luật Doanh nghiệp 2014 vì 30% có quyền phủ quyết 1 số yêu cầu của doanh nghiệp, Nhà nước vừa không mất quyền, vừa trao lại quyền cho doanh nghiệp.

Nếu như vậy, thứ nhất, nhiều lĩnh vực có thể mở ra.

Thứ hai, lĩnh vực nông nghiệp phụ thuộc vào trồng trọt, chế biến gần như chưa ai khai phá. Các hiệp định FTA chúng ta ký kết cũng là lĩnh vực cam kết nhiều bảo hộ cho doanh nghiệp trong nước.

Thứ ba, thế giới bắt đầu chuyển vào thời kỳ cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần 4 rất nhanh. Các ngành dịch vụ máy móc không thể tác động được. Còn một số ngành khác như du lịch, khách sạn, lữ hành thì Việt Nam có thể chủ động tác động, và là những lĩnh vực còn nhiều tiềm năng và khai thác được ngay.

TS. Võ Trí Thành: Bên cạnh đó còn nhiều tác động khác như thiên tai, địa chính trị…

GS.TSKH Nguyễn Mại: Đánh giá Việt Nam 2016 có lẽ nên đặt trong khu vực các nước ASEAN, điều chúng ta muốn rất nhiều tuy nhiên so với các nước ASEAN, chúng ta cũng đối mặt với nhiều thách thức nhưng tăng trưởng của chúng ta tích cực. Khi đánh giá nền kinh tế cần đặt trong bối cảnh để thấy những yếu kém nhưng cũng thấy những cố gắng.

GS.TSKH Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE)

Nội tại ngoài nợ xấu, nợ công nên có đánh giá về bất lợi của doanh nghiệp trong năm 2016 và Chính phủ chưa làm gì cho bất lợi này.

Tôi tán thành với việc điều hành tỷ giá một cách linh hoạt, nhưng phải nói những doanh nghiệp xuất khẩu năm 2016, đặc biệt xuất khẩu sang khu vực đồng euro, yen Nhật bị thiệt hại ghê gớm do USD lên giá, Việt Nam giữ giá, nhiều doanh nghiệp thua lỗ.

Nếu chúng ta không có một chính sách hỗ trợ vừa là hỗ trợ tỷ giá, vừa là hỗ trợ lợi tức lãi suất cho một số doanh nghiệp, thì trong năm 2017 khi tỷ giá USD và EUR có thể lên đến 1:1, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn.

Khi ông Đặng Huy Đông, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư gửi cho tôi bản dự thảo về luật doanh nghiệp vừa và nhỏ, tôi đã viết 10 kiến nghị. Nếu tôi là doanh nghiệp nhỏ thì tôi thấy Luật này chả có tác dụng gì. Luật này không cần dài, chỉ cần có chứa những điều mà doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể hưởng lợi.

Đối với doanh nghiệp siêu nhỏ, việc tích lũy là nguồn lực chính yếu giúp họ có thể phát triển thành doanh nghiệp nhỏ trong 1 đến 2 năm. Đây là điều rất quan trọng.

Còn về câu chuyện FDI, tôi đã được phỏng vấn rất nhiều. Năm nay giải ngân vốn FDI chắc chắn không đạt kế hoạch, có thể chỉ đạt hơn 16 tỷ USD, tôi không quan tâm nhiều lắm đến con số đăng ký, có năm đăng ký hơn 70 tỷ nhưng số tiền thực hiện thấp hơn rất nhiều. Đó chỉ là những con số ảo, chẳng để làm gì.

Tuy nhiên, khảo sát trong những năm gần đây, số vốn đăng ký và vốn thực hiện đã gần sát nhau, như năm 2011 đăng ký 18 tỷ USD thì thực hiện được 11 tỷ USD, chênh lệch không quá nhiều, có nghĩa là người ta xin được dự án thì sẽ thực hiện. Chắc chắn 2017 chúng ta có thể thực hiện được thêm 10% của 16 tỷ USD trong năm 2016.

Sang đến năm 2017, có lẽ yếu tố quyết định nhất chính là chúng ta. Thủ tướng đã nói rằng “đã nói là phải làm”.

Xin Chính phủ nói là làm, đừng nói thế này mà làm thế khác, rất nguy hiểm.

Thứ hai là đội ngũ công chức cần phải đổi mới. Đánh giá của thế giới về môi trường đầu tư của Việt Nam tăng 17 bậc, nhưng công chức các sở ngành hành doanh nghiệp rất nhiều.

Ông Võ Trí Thành: Có 2 vấn đề ở đây, chúng ta có cơ hội như các anh nói. Nhưng khi nhìn vào mục tiêu tăng trưởng và thực tế năm 2016 thì có thể thấy câu chuyện của năm 2016 không hề đơn giản. Mặc dù có sự quyết tâm nhưng có sự cẩn trọng rất cao.

"Câu chuyện của năm 2016 không hề đơn giản", ông Võ Trí Thành đánh giá

Cái nhìn thận trọng bên cạnh con số tăng trưởng xuất khẩu có cần thiết không khi gắn liền với kinh tế vĩ mô? Bản chất tăng trưởng là công ăn việc làm. Ngoài ra ông Mại cũng nói nhiều về luật doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các khung pháp lý của Việt Nam hiện nay đang có một số điều bất cập. Ngoài ra cách làm để cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam đã đủ tốt chưa?

Năng lực cạnh tranh của Việt Nam đang giảm, tôi muốn tập trung vào các khía cạnh đó.

Ông Nguyễn Anh Tuấn: Tăng trưởng 6,7% trong năm 2017 đã được Quốc hội phê duyệt có khả thi không? Dưới góc độ cá nhân tôi thấy thì dự báo phải đi cùng điều kiện cụ thể, trong trường hợp bất khả kháng thiên tai như năm 2016 thì như thế nào hoặc năm 2016 không có thiên tai thì như thế nào?

PGS.TS Ngô Trí Long: Tôi nghĩ chúng ta nên phân tích các chỉ tiêu tăng trưởng GDP, tỷ giá, chỉ số chứng khoán, giá vàng, đây là vấn đề thiết thực các nhà đầu tư quan tâm.

Tôi chỉ xin nói đến vấn đề mà tôi nghiên cứu kỹ, đó là vấn đề tăng trưởng. Đây là vấn đề liên quan đến một loạt các vấn đề khác như nợ công, việc làm, lạm phát,...

Chúng ta đã bàn rất nhiều đến mục tiêu tăng trưởng. Thủ tướng cũng đã nói muốn tăng trưởng mạnh thì có thể đẩy mạnh xuất khẩu, tăng giải ngân, thậm chí là tăng khai thác dầu.

Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng như thế nào thì chưa bàn tới, liệu sau tăng trưởng có sự phân hóa giàu nghèo, vấn đề môi trường sẽ ra sao?

Tôi cho rằng định lượng cần những chất lượng cũng cần bàn, chất lượng tốt nhưng hiệu quả cũng quan trọng.

PGS.TS. Ngô Trí Long, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý giá (Bộ Tài chính)

Vấn đề thứ hai là lạm phát, mục tiêu lạm phát năm 2016 là dưới 5%, năm 2017 Quốc hội đề ra tốc độ tăng giá bình quân tiêu dùng 4%. Xoay quanh cơ chế điều hành giá có rất nhiều vấn đề, như cơ chế điều hành giá xăng theo cơ chế thị trường chẳng hạn, giá xăng trong nước đã phù hợp với thế giới chưa?

Tôi cho rằng, với cơ chế điều hành hiện tại, nhà nước đang nghĩ về lợi ích của mình nhiều hơn. Phải đảm bảo lợi ích thuế phí, lợi ích doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Thuế nhập khẩu tính mới khiến giá xăng dầu cao hơn, Bộ Tài chính và Công thương đổ lỗi về việc đánh thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế chồng thuế trong cách tính giá xăng dầu.

Để định giá, có nhà nước và doanh nghiệp định giá. Cách định giá đối với vận tải có bất cập, có sự cạnh tranh nhưng lại đưa vào diện bình ổn nên mỗi lần điều chỉnh tăng giá gây khó khăn cho doanh nghiệp; hay vấn đề điều hành giá sữa, sữa đã cạnh tranh mà Chính phủ lại quyết định giá trần, các doanh nghiệp và tổ chức quốc tế đã phán ứng rất mạnh.

Xoay quanh câu chuyện cơ chế điều hành giá, chúng ta vẫn sẽ phải bàn tiếp hay cơ chế quản lý như thế nào. Chúng ta ngồi đây để bàn xem những khó khăn, bất cập với doanh nghiệp là gì để kiến nghị với chính phủ. Mặc dù chính phủ rất quyết liệt nhưng thay đổi rất chậm.

Nói về kinh tế 2017, quan điểm cá nhân tôi dự báo kinh tế thế giới có nhiều bất ổn. Việt Nam có thể phát triển nếu có những cải cách thực sự mạnh mẽ. Chính phủ phải làm thế nào để tăng năng suất lao động, tăng mức hiệu quả. Tiếp theo là phải xử lý nợ công.

Ngoài ra tốc độ thoái vốn của các doanh nghiệp thế nào để hiệu quả.

Bên cạnh đó là tạo điều kiện thuận lợi cho ngành thuế, hải quan. Muốn thực hiện những điều này phải cực kỳ phức tạp.

Hay thí dụ như chúng ta giúp doanh nghiệp khởi nghiệp như thế nào. Quan điểm của tôi phải cải cách thủ tục tài chính. Chính phủ nói rất mạnh nhưng chuyển biến ở dưới chậm.

Phải thúc đẩy bộ phận ở dưới thay đổi mạnh mẽ hơn. Khi gặp gỡ, doanh nghiệp phát biểu là sợ chính sách một phần, nhưng người thực thi còn đáng sợ hơn nếu người chuyển biến ở giữa chưa đổi mới.

Ông Võ Trí Thành: Về cơ bản, giá Việt Nam theo thị trường, ngoài một số lĩnh vực cá biệt như sữa, xăng dầu. Điều này là tốt hay không tốt cho doanh nghiệp?

Vấn đề phải nói cụ thể, sữa là doanh nghiệp nào, xăng dầu thì ai đứng đằng sau là doanh nghiệp. Hai ý tôi muốn nói, giá Việt Nam cơ bản theo giá thị trường, 1 số lĩnh vực còn bàn. Nói tới lĩnh vực là doanh nghiệp, có tốt hay không cho doanh nghiệp.

Luật sư Trương Thanh Đức: Dù đúng dù sai thì cuộc sống vẫn chảy, có thắng có thua, cần nhìn nhận sự thật. Có người khẳng định càng khó khăn càng có nhiều cơ hội nhưng thực tế bản chất thị trường lúc nào cũng có cơ hội.

Luật sư Trương Thanh Đức, Chủ tịch Công ty Luật Basico

Về doanh nghiệp, nền kinh tế hồ hởi với tinh thần tự do kinh doanh, nhưng vẫn còn những trường hợp như Café Xin chào, và còn hàng trăm, hàng nghìn Café Xin chào khác.

Nợ xấu hiện nay thì đang ở mức đặc biệt xấu. Mặc dù tỷ lệ nợ xấu đang giảm, nợ trong 12 tháng hay 36 tháng không đáng ngại. Nguy hiểm thật sự nằm ở những khoản nợ trong thời gian từ 3 đến 5 năm.

Cổ phần hóa hiện nay cũng mới chỉ là “bình mới rượu cũ”. Mặc dù đã có tư nhân hóa nhưng chi phối của doanh nghiệp nhà nước vẫn rất lớn. Hiến pháp đã chốt chặt không thay đổi. Cổ phần hóa để giảm vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong khi thực tế đang làm ngược lại.

Môi trường sống hiện nay đang nguy hiểm, nhiều người bị ung thư. Kinh tế có tăng trưởng nhưng kinh tế xã hội, đời sống vẫn đang rất đáng ngại. Nhiều chuyên gia đã lên tiếng cần phải có đổi mới lần thứ hai.

Với những định hướng như hiện nay, đổi mới chính sách đã hết chỗ để thực hiện. Luật đang bị chắp vá quá nhiều. Nên tính đến viết luôn chính sách và luật mới.

Cải tiến nhiều nhưng đáng tiếc không được như kỳ vọng, mà tạo ra nhiều hạn chế. Một phần đổi mới thì có đến nửa phần gặp hạn chế, vì chúng ta chưa làm đúng vấn đề, thậm chí đi chệch khỏi đường ray kinh tế thị trường.

Ví dụ, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, tôi đã nói nhiều với các anh soạn thảo là sự đổi mới nửa vời.

Chẳng hạn, đáng luật được 10 phần, ban soạn thảo chỉ làm 7 phần. Ví dụ Nghị định đăng ký kinh doanh, chính ban soạn thảo cũng thừa nhận về vấn đề này. Thậm chí “âm” như việc đăng ký, xử lý ngành nghề kinh doanh còn khó hơn trước.

Con số ngành nghề kinh doanh bản gần cuối cùng mà tôi được biết gần như không thay đổi, xóa đi, viết trùng và tôi tính ra là thêm chứ không bớt. Có một số ngành nghề không hiểu sao lại giữ.

Tất nhiên, luôn có nhiều điều nghịch lý. Luật cho doanh nghiệp không có luật nào hợp lý 100% cho tất cả, nhưng vẫn cần phải nói.

Ví dụ, quy định về thuế quy định rõ hóa đơn chứng từ phải có đầy đủ chữ kí, dấu má, nhưng có doanh nghiệp nhận được biên lai từ cơ quan công an thu 1 triệu đồng tiền làm biển mà không dấu má gì. Thông tư thuế nêu rõ thiếu như vậy thì không thanh toán được.

Hay quy định về đại diện pháp luật cũng có bất cập. Ví dụ doanh nghiệp có 3 đại diện pháp luật, khi có vấn đề gì, 1 trong 3 người đại diện pháp luật có thể ký nhưng quy định không nêu cụ thể nên cả 3 phải cùng ký.

Đặc biệt, về chứng khoán, có quy định muốn triệu tập đại hội đồng cổ đông phải đợi 6 tháng sau khi sở hữu, nhưng nếu tôi bỏ ra mua 99% cổ phần tại doanh nghiệp đó, đợi tới 6 tháng thì người ta phá nát doanh nghiệp của tôi ra rồi.

Nguy hiểm là chúng ta muốn giữ ổn định cho doanh nghiệp đỡ biến động nhưng thực tế lại đi ngược hoàn toàn.

TS. Võ Trí Thành: Có người tỏ ra lạc quan, nhưng một vài người tỏ ra bi quan. Tư duy của chúng ta chưa thay đổi, có một bước tiến cũng có từng đấy bước lùi.

Ông Nguyễn Tú Anh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước: Tôi xin có một số ý kiến về nhìn lại kinh tế 2016 và đánh giá triển vọng 2017, tuy nhiên, trước tiên tôi muốn đính chính lạm phát một chút.

Theo số liệu 2012-2013, lạm phát bình quân cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái (yoy) vì nó phụ thuộc rất nhiều vào lạm phát cuối năm như thế nào. Nếu lạm phát cuối năm tăng vọt lên thì lạm phát yoy có thể cao hơn, nhưng nếu sang năm lạm phát chúng ta điều chỉnh giá y tế giáo dục vào đầu năm làm cho lạm phát đầu năm tăng vọt lên thì cuối năm lạm phát yoy có thể thấp hơn lạm phát trung bình.

TS. Nguyễn Tú Anh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước

Điểm thứ hai là lạm phát cơ bản, ở Việt Nam có đặc thù là ngoài giá năng lượng, thực phẩm,... thì còn có giá Nhà nước quản lý bao gồm giáo dục y tế. Năm vừa rồi, giá này chiếm tỷ trọng rất lớn, nếu chỉ tính lạm phát cơ bản thì chỉ khoảng 2,07%.

Về vấn đề tỷ giá, NHNN điều hành theo lợi ích tổng thể của nền kinh tế, phục vụ mục tiêu tăng trưởng bền vững, NHNN không neo giữ mà điều hành tỷ giá linh hoạt.

Tôi nhìn triển vọng lạc quan hơn, nhìn cơ cấu tăng trưởng của 2016, sẽ thấy khu vực dịch vụ và sản xuất, vốn là 2 động cơ chính của nền kinh tế tăng trưởng mạnh hơn so với năm ngoái. Trong khi đó, khu vực nông nghiệp giảm, khai khoáng lại giảm mạnh.

Theo dự báo sang 2017, những biến động bất lợi cho nông nghiệp và khai khoáng sẽ không nghiêm trọng như 2016 và tăng trưởng kinh tế Việt Nam có thể sẽ không ảnh hưởng nhiều. Nếu so sánh từ 2012 đến nay thì khu vực kinh tế chế tác luôn có sự tăng trưởng.

Một số dự báo nền kinh tế đi xuống thì sự thật không hẳn là như vậy. Năm 2017 sẽ không hoàn toàn có lợi. Theo quan sát của chúng tôi, năm nào giải ngân FDI nhiều thì năm đó nhập siêu. Nhưng từ 2008 đến nay, năm nào giải ngân nhiều thì năm đó lại xuất siêu. Vậy có khi nào khu vực doanh nghiệp trong nước đã phần nào đáp ứng được các nhà đầu tư nước ngoài?

Cán cân thương mại đã đi dần vào ổn đinh. Từ 2012 có thâm hụt một chút và năm nay đã thặng dư.

Vấn đề bất định của Donald Trump thì tư tưởng của ông này là chống tự do hóa thương mại hay chống một vài nước cụ thể? Nếu chống vài nước thì có thể sẽ có lợi cho Việt Nam.

Ông Võ Trí Thành: Nhân đây, tiếp theo còn 2 câu chuyện khác, tôi muốn nghe một doanh nghiệp đặc biệt là Toyota đánh giá về môi trường kinh doanh tổng thể. Ông Doanh nói về Donald Trump, TPP… Trong bối cảnh Việt Nam tham gia nhiều FTA thì sẽ ảnh hưởng như thế nào?

Ông Phạm Anh Tuấn, Tổng trưởng ban kế hoạch chiến lược Toyota Việt Nam: Về ô tô mà nói thì quan điểm của nhà đầu tư nước ngoài là vẫn còn nhiều tiềm năng, đặc biệt trong những năm tới đây khi mức thu nhập trung bình tăng lên, hạ tầng cải thiện.

Tuy nhiên, vấn đề là thị trường tăng trưởng rơi vào ai? Nếu không cải thiện về chính sách thì thị trường rơi vào nhà nhập khẩu khi từ năm 2018 thuế nhập khẩu về 0%.

Ông Phạm Anh Tuấn, Tổng trưởng ban kế hoạch chiến lược Toyota Việt Nam

Các nhà sản xuất chúng tôi đang lo ngại làm thế nào để tồn tại? Thị trường sẽ tăng nhưng lo ngại là có nên mở rộng đầu tư, sản xuất thêm không.

Toyota muốn tăng sản xuất và nhiều doanh nghiệp cũng vậy nhưng còn phụ thuộc vào chính sách của nhà nước. Thời gian không còn nữa và chúng ta phải có chính sách.

Về thực thi chính sách trong ngành ô tô. Năm 2017 sẽ phải thực thi quy định khí thải tiêu chuẩn Euro 4 nhưng hiện chưa có lộ trình cụ thể. Tôi được biết, các nhà sản xuất xăng trong nước chưa đáp ứng được, phải chờ 3 năm nữa như vậy sẽ phải nhập khẩu.

TS. Lê Đăng Doanh: Tôi lấy làm lo ngại về chính sách của ông Trump và tác động đến Việt Nam vì ông Trump định hướng tập trung cho nước Mỹ, rút lui khỏi các cam kết, các biện pháp đã từng cam kết. Ví dụ còn có ý định khuyến khích Nhật và Hàn có vũ khí hạt nhân, nuôi thêm quân đội Mỹ.

Tôi xin lưu ý, kinh tế Mỹ và Việt Nam bổ sung cho nhau, ít cạnh tranh, nhưng Việt Nam xuất khẩu dệt may, da giày, đồ gỗ và sản phẩm khác cho Hoa Kỳ, việc có thị trường nào đó thay thế được Mỹ là khó.

Thứ 2, Việt Nam cam kết rất cao về cải cách thể chế khi tham gia TPP, ví dụ thời gian thông quan, hiện đang là 12 ngày giảm xuống chỉ còn 48 tiếng. Nếu không có TPP, TPP chậm lại chúng ta có đẩy mạnh được cải cách hay không.

Thứ 3, với xu thế bảo hộ tăng có các nỗ lực rào chắn và hạn chế thì chúng ta phải có chính sách cho một tương lai trung hạn, hội nhập chiếm lĩnh đa dạng hóa thị trường như nào khi nhiều nước có rào cản trực tiếp và kỹ thuật, lại là sức ép nữa để chúng ta vươn lên.

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Tôi không lạc quan như một số diễn giả trước. Tôi thấy giữa năm 2016, chính phủ đã cho rằng chỉ tiêu tăng trưởng muốn đạt được 6,7% là rất khó. Một số dự báo cho thấy chúng ta chỉ đạt được mức 6%. Tôi thử phân tích 4 nhóm nguyên nhân tại sao không đạt được.

2 nguyên nhân từ bên ngoài đó là những thứ không kiểm soát được như môi trường, biến đổi khí hậu. Tiếp theo là biến động trên thế giới. Việc rút khỏi Việt Nam của khối ngoại có thể đến từ nhiều lý do như Brexit, Donald Trump.

"Năm 2017, tôi không lạc quan kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng cao hơn năm nay", TS. Nguyễn Trí Hiếu nhận định.

2 nguyên nhân của chính mình là đầu tư công ngày càng tăng, chính phủ mới cũng cần thời gian để sắp xếp mọi thứ. Các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ cũng ảnh hưởng đến tăng trưởng của đất nước.

Năm 2017, tôi không lạc quan kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng cao hơn năm nay, Việt Nam có thể sẽ đi vào giai đoạn trì trệ nếu 4 nguyên nhân đó không được giải quyết. 2 yếu tố bên ngoài thì không thể kiểm soát được. Chỉ hy vọng được khí hậu tốt hơn, kinh tế thế giới ổn định hơn nhưng rõ ràng tiêu cực thì dễ xảy ra hơn tích cực.

Vấn đề về chi phí công, nợ công có thể thay đổi nhưng chúng ta nói nhiều năm rồi mà chưa thấy có dấu hiệu được cải thiện.

Tăng trưởng theo tôi dự báo sẽ vào khoảng 6%. Tăng trưởng 6 hay 6,7% với dân chúng thì không quan tâm tăng hay giảm. Nhưng đây là con số chúng ta phải quan tâm.

GDP của chúng ta khoảng 2.000 USD/năm/người, chia ra 3 - 4 triệu/tháng, nếu GDP giảm 0,7% thì mỗi người dân mỗi tháng đều thiệt hại. Như vậy với người dân ngoài kia thì phải quan tâm, bởi họ là người thiệt hại lớn.

TS Võ Trí Thành: Đúng như vậy, bởi tăng trưởng là công ăn việc làm của người dân.

TS. Nguyễn Thành Long: Theo báo cáo đánh giá về Việt Nam, trong 2-3 năm trở lại đây, Việt Nam là một trong số quốc gia có sự ứng xử linh hoạt và vẫn duy trì được tăng trưởng trong bối cảnh còn nhiều bất ổn vĩ mô.

Dự báo năm 2017, lạm phát năm 2016 vào khoảng 2,47% trong khi đó GDP tăng trưởng 6,3%. Vậy với mục tiêu đặt ra, dư địa cho chính sách tiền tệ cho sang năm vẫn còn.

TS. Nguyễn Thành Long, Chủ tịch Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội.

Dư địa cho chính sách tiền tệ có nới lỏng hơn, và đây là một trong những lý do tác động đảm bảo mục tiêu tăng trưởng.

Thứ 2, liên quan đến cấu trúc nền kinh tế cũng như giải pháp ứng xử, nền kinh tế Việt Nm chủ yếu tăng trưởng dựa trên xuất khẩu và cũng có những lý do qua lại nhất định như TPP, Donald Trump ảnh hưởng đến dư địa.

Nhưng cá nhân tôi cho rằng Việt Nam chỉ có thể không làm tốt hơn nhiều chứ chưa chắc làm xấu hơn.

TPP triển khai thuận lợi sẽ mang lại cơ hội tăng trưởng cao cho Việt Nam. Hàng xuất khẩu sang Mỹ, nền kinh tế Việt Nam và Mỹ bổ sung chứ không có cạnh tranh. Với Mỹ là thị trường đảm bảo, tình hình xuất khẩu của Việt Nam không hẳn quá bi quan.

Thứ hai là hiện nay còn có thêm một hiệp định chúng ta đang đàm phán là RCEP. Theo đánh giá, Việt Nam là một trong những quốc gia được hưởng nhiều nhất từ hiệp định này. Ngoài ra chúng ta cũng đang đàm phán ký 12 hiệp định khác. Nói như thế để thấy, nếu TPP không thành thì chúng ra cũng còn rất nhiều các hiệp định khác. Nhìn chung ở một góc độ nào đó, với bối cảnh thế giới diễn ra, mức độ xán lạn trong nước có thể không bằng nhưng cũng sẽ không kém hơn hiện tại.

Thứ ba là khi xuất hiện chủ nghĩa bảo hộ thì chúng ta cần lưu ý thị trường trong nước, nên định hướng thêm về việc khai thác thị trường trong nước, một thị trường tiềm năng với hơn 100 triệu dân.

Thêm ý nữa là đúng là chỉ số kinh doanh tăng 9 bậc từ 91 xuống 82, nhưng chỉ số năng lực cạnh tranh có giảm so với năm trước, nhưng nguyên nhân là do các nước bạn tăng mạnh quá. Còn về điểm số năng lực cạnh tranh của chúng ta vẫn tăng 4,13 điểm so với năm trước.

TS. Võ Trí Thành: Tình hình khó khăn đang có nhiều điểm nghẽn nhưng cũng đang có những tia sáng. Việt Nam phải đủ tự tin, đủ linh hoạt trong cải cách. Phải đặc biệt lưu ý đến tính tương tác giữa bộ máy nhà nước và doanh nghiệp, đặc biệt các lĩnh vực liên quan đến sở hữu nhà nước phải đặc biệt lưu ý.

Chúng ta có thể có khác biệt nhưng kinh tế thế giới đang có chung 3 đặc điểm. Đó là phục hồi rất khó khăn trong khi thương mại hàng hóa giảm. Rủi ro và bất định trong địa chính trị, giá ra tăng. Tư tưởng chống rủi ro thương mại tăng lên.

Tuy nhiên cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và sự phát triển ngành dịch vụ đang được đánh giá tốt. Trong ASEAN, đánh giá về thương mại dịch vụ đang thấp. Về vĩ mô, khó khăn và lòng tin chưa cao đang là những tồn tại. Động lực cho tăng trưởng của Việt Nam gần đây và trong năm tới vẫn sẽ là công nghiệp chế tác, khối FDI, xây dựng và một số lĩnh vực dịch vụ.

Năm tới nông nghiệp sẽ có thể cải thiện. Động lực cho ngành xây dựng cũng sẽ gặp những khó khăn. Dự báo bất động sản gần đây cho thấy 2017 sẽ chưa vào giai đoạn bong bóng. Dịch vụ liệu Việt Nam có thu hút được nhiều khách du lịch nước ngoài không vẫn là câu hỏi.

Đầu tư trong năm tới có thể sẽ không được nhiều như năm nay. Tín dụng ODA khoảng 12 đến 13%.

Xuất khẩu đã đặt mục tiêu thận trọng hơn, tiêu dùng vẫn là điểm sáng, trong thống kê, Việt Nam vẫn là một trong số những người lạc quan trong khu vực châu Á.

Tất cả các dự báo gần đây đều cho rằng tăng trưởng của Việt Nam trần khoảng 6,5%; thấp là 6% để nói chúng ta vẫn có cơ hội nhưng thực sự khó khăn, cần khéo léo và quyết liệt trong cải cách.

PHIÊN 2: Thảo luận lĩnh vực ngân hàng và chứng khoán do ông Nguyễn Anh Tuấn điều phối.

TS. Nguyễn Tú Anh: Tóm tắt chính sách tiền tệ trong năm 2016, chúng ta nhìn ra thị trường bên ngoài sẽ thấy những biến động từ các đối tác chính. Một số sự kiện như Brexit cũng đã có tác động đến kinh tế. Ngoài ra các điều chỉnh phi truyền thông như ông Donald Trump cũng tạo ra ảnh hưởng.

Trong năm nay việc điều chỉnh chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước với tỷ giá trung tâm đã có thành công. Trước đây có nhiều nước lấy tỷ giá trung tâm là tỷ giá đóng cửa của thị trường liên ngân hàng. Nhưng tỷ giá này không phải ảnh đầy đủ thị trường và dễ bị tác động.

Như vậy, có thể nói, tính cho đến cuối năm, tỷ giá hầu như ổn định, chính sách tỷ giá trung tâm thực hiện chống dollar hóa khá thành công, dấu hiệu đầu cơ ngoại tệ giảm đi nhiều.

Trong năm nay, NHNN đã mua được lượng ngoại tệ rất lớn từ thị trường, giảm tình trạng đô la hóa, tỷ lệ tiền đô/M2 giảm xuống còn 10%, trong khi theo tiêu chuẩn IMF, tỷ lệ này nếu trong mức từ 16-30% là bị đô la hóa nhẹ, trên 30% là đô la hóa nặng.

Chống đô la hóa cũng giúp nâng cao hiệu quả chính sách tiền tệ, bởi một nền kinh tế bị đô la hóa thì tác dụng chính sách tiền tệ bị giảm đi rất nhiều.

Thành công thứ hai của năm 2016 là tăng dự trữ ngoại hối lên cao, có tác dụng lớn trong việc giảm chi phí đi vay trên thị trường quốc tế.

Bởi, cùng mức rủi ro quốc gia, nếu quốc gia nào có khả năng khắc phục cao hơn các sự cố có thể xảy ra thì chi phí đi vay giảm đi, nói một cách khác, độ tin cậy về khả năng can thiệp của NHNN cao hơn nhờ lượng dự trữ ngoại tệ lớn hơn.

Khi mà Donald Trump đắc cử thì truyền thông trong và nước ngoài đều khẳng định sự bất định ngày càng tăng, sự bất định đó phản ánh vào tỷ giá khiến tỷ giá tăng vào cuối năm, yếu tố tâm lý là rất lớn.

Tuy nhiên, có vấn đề là nếu nhìn ngược lại quá trình biến động vừa qua, thì mức tăng đó sau khi qua cú sốc sẽ ổn định trở lại.

Trong bối cảnh nguồn lực đất nước đang có nhiều vấn đề, về tài khóa còn hạn chế, nợ công, thâm hụt… gánh nặng lên chính sách tiền tệ ngày càng lớn.

Về lãi suất cho vay khoảng 6-9% nhưng khách hàng tốt có thể vay với lãi suất thấp hơn 6%, cho thấy rủi ro trong khu vực doanh nghiệp còn cao. Trong xu hướng nền kinh tế tốt hơn, chuyên nghiệp hơn thì lãi suất có thể ổn định, thậm chí giảm nếu điều kiện tốt.

Thanh khoản hệ thống ngân hàng khá tốt, không có ngân hàng nào gặp khó khăn.

Về lạm phát, nếu nói chính sách tiền tệ tác động lên lạm phát thì nhìn vào lạm phát cơ bản. Đến nay lạm phát cơ bản chỉ 1,6-1,8%, nghĩa là chúng ta đang giữ được theo đúng chuẩn và đang kiểm soát khá tốt.

Có người nói nợ xấu đang rất xấu. Vâng nợ xấu trong kho vẫn còn và chúng ta phải xử lý chúng trong bối cảnh nguồn lực để xử lý nợ xấu đang bị giới hạn rất nhiều. Nhiều người nói chúng ta đưa nợ xấu vào VAMC và để đấy nhưng không phải. 50% đã được xử lý, sử dụng bằng dự phòng, khách hàng đã trả, bán tài sản phát mại…

Đáng lẽ tỷ trọng bán tài sản phát mại lớn nhưng thực tế đang thấp vì vướng các vấn đề pháp lý cần giải quyết để cân bằng lợi ích người đi vay, cho vay vì mục đích cuối cùng là tổng thể nền kinh tế.

Cho đến nay tỷ lệ nợ xấu là 2,58% bao gồm cả tài sản ngoại bảng và tại VAMC nợ xấu tồn đọng phần chưa giải quyết được, nhưng chúng ta đang cố gắng giải quyết, cố gắng để nợ xấu không tăng lên.

Năm 2017 định hướng chính sách của Việt Nam sẽ khác các nước khác ở điểm có nhiều mục tiêu. Đầu tiên là ổn định kinh tế vĩ mô. Ngân hàng nhà nước phải chủ động và linh hoạt đón những biến động cả có lợi và bất lợi.

Bên cạnh đó chính sách tiền tệ sẽ phải phối hợp với các chính sách vĩ mô khác như chính sách tài khóa hay với Bộ Công thương để ổn định lạm phát.

Tham khảo dự báo của các tổ chức khác, trong đó có IMF, đều cho thấy tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam là tốt, còn khả năng khai thác được bao nhiêu thì còn chờ. Riêng quan điểm cá nhân tôi thì triển vọng khá tích cực.

Chỉ số PMI trong 6 tháng liên tục đạt trên 52 điểm, và tháng 11 đạt 54 điểm, tức đơn đặt hàng và việc làm tăng vọt trong tháng 11. Tôi có niềm tin trong tháng 12 cũng tăng và kéo tăng trưởng quý IV.

Trong năm tới, dự báo của các tổ chức thế giới đều cho rằng kinh tế thế giới sẽ phục hồi, xuất khẩu của Việt Nam theo đó cũng sẽ tăng tốt hơn năm vừa rồi.

Tuy nhiên, những bất định cũng khá cao, trong đó có những bất ổn về xu hướng bảo hộ, về đồng nhân dân tệ,... tất cả đều được phản ánh hết vào các chính sách tiền tệ.

Trong chính sách điều hành sắp tới, chúng tôi dự kiến mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng đề ra 6,7% và mục tiêu quan trọng nhất là ổn định kinh tế vĩ mô.

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Khi nghe ông Tú Anh trình bày quan điểm của NHNN nhưng tôi thấy nó dựa trên một kịch bản lạc quan. Kịch bản đó có thể xảy ra nhưng thông thường phải có 3 kịch bản: lạc quan, bình thường và bi quan.

Tôi hi vọng kịch bản lạc quan sẽ xảy ra với giá hàng hóa tăng, kinh tế ổn định, hội nhập tốt… nhưng xác suất không cao bởi nền kinh tế thế giới rất biến động.

Trong những tháng vừa qua 400 triệu USD vốn ngoại rút khỏi Việt Nam, xu hướng này có tiếp tục hay không? Tôi cho rằng có thể, vì TPP hiện tại khó xảy ra.

Nói về ngân hàng, hiện tại tôi đồng ý NHNN đã có thành quả nhất định trong năm qua khi thực thi chính sách tiền tệ. Nhưng một số điểm chưa được, lãi suất vẫn cao huy động 6%, cho vay 6-9%, vẫn rất cao cho doanh nghiệp. Năm qua kêu gọi giảm nhưng vẫn không giảm được.

Tại sao lãi suất không xuống được, hình như có những biến động trong đó có vấn đề tỷ giá? Tỷ giá biến động hơn 1%, đây là sự tuyệt vời, sự ổn định của tiền đồng nhưng có hợp lý không khi lạm phát khoảng 5%?

Hình như chúng ta đã làm cho đồng Việt Nam tăng giá so với đồng USD và so với tiền tệ khác, điều đó bất lợi cho xuất khẩu, chẳng hạn đồng Nhân dân tệ đã tăng 5-6% so với đầu năm, đồng Nhân dân tệ phá giá và tiếp tục phá giá, tác động đến Việt Nam như nào và không có lợi cho Việt Nam.

TS. Nguyễn Tú Anh: Có ý kiến nói cần điều chỉnh tỷ giá tương đương, nhưng cần so sánh độ trượt giá của hàng thương mại và loại trừ trượt giá của hàng phi thương mại, dịch vụ. Lạm phát chủ yếu là giá y tế và giáo dục, là những hàng hóa không thương mại được, không phản ánh vào tỷ giá. So sánh lạm phát Mỹ 2% và Việt Nam 5% là không được mà cần quy luật một giá.

Kể từ khi thực hiện tỉ giá trung tâm, NHNN không cam kết bất kỳ mức độ điều chỉnh nào chỉ 1 hay 2%. Tuy nhiên lãi suất trung bình chỉ điều chỉnh trong khoảng 1%.

Có nhiều cái NHNN chưa làm được nhưng tôi nghĩ rằng trong khó khăn, làm như vậy là không đến nỗi tệ.

Ai cũng nhìn NHNN xem họ có thể kéo được lãi suất xuống, bổ trợ nền kinh tế nhưng chính sách tiền tệ không độc lập với chính sách tài khóa.

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Tôi đồng ý là NHNN chịu quá nhiều áp lực, mà áp lực chính từ Chính phủ, vậy Chính phủ phải làm sao để giảm bội chi, giảm thâm hụt ngân sách để giảm áp lực cho ngân hàng.

GS.TSKH Nguyễn Mại: Tôi cho rằng năm nay khó mà giảm lãi suất, một là phân bổ tín dụng không đều. Năm nay mục tiêu tăng trưởng tín dụng là 18%, nhưng phân bổ tín dụng rất thiệt thòi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không vay được vốn mặc dù có nhiều gói.

Tôi mong muốn NHNN ko chỉ công bố nợ xấu bao nhiêu mà phải là nợ xấu do ai nữa, chắc chắn là do các tập đoàn lớn. Câu chuyện này lớn hơn nhiều so với tỷ giá hay lãi suất. NHNN cần yêu cầu các ngân hàng thương mại chú ý đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang cần vốn.

BizLIVE

Nguồn BizLIVE: http://bizlive.vn/kinh-te-dau-tu/lam-an-gi-nam-2017-2277083.html