Hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc

Đồng chí Lê Hồng Phong tên thật Lê Huy Doãn, sinh năm 1902 tại xã Thông Lạng (nay là xã Hưng Thông), huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. 42 tuổi đời, 20 năm hoạt động cách mạng liên tục, oanh liệt và đầy nhiệt huyết, đồng chí đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc. Đồng chí là tấm gương sáng về đạo đức cách mạng, tình yêu gia đình, quê hương, đất nước, suốt đời hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân, tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, son sắt thủy chung với đồng chí, bạn bè, luôn lạc quan tin tưởng vào thắng lợi vẻ vang của cách mạng.

Trước lúc hy sinh, đồng chí nhắn lại: “Xin chào tất cả các đồng chí, nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng, tới phút cuối cùng Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng ở thắng lợi vẻ vang của cách mạng!...”.

HỌC TRÒ XUẤT SẮC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Sau khi học xong sơ học yếu lược, đồng chí đã rời làng ra thành phố, đầu tiên ở Vinh, sau là Bến Thủy, sống cảnh làm thuê. Không chịu đựng nổi cảnh bóc lột và áp bức của giới chủ, đồng chí và những người cùng tâm huyết đã vận động anh chị em công nhân nổi dậy đấu tranh. Vì lẽ đó mà đồng chí bị đuổi việc.

Cuối năm 1923, đồng chí cùng người bạn thân là đồng chí Phạm Hồng Thái bí mật sang Xiêm (Thái Lan) gặp các nhà yêu nước Việt Nam. Năm 1924, đồng chí sang Quảng Châu (Trung Quốc) gia nhập Nhóm Tâm Tâm xã và sau đó được gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, được Người giác ngộ cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Kể từ đó đồng chí quyết tâm đi theo con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Phần trưng bày về đồng chí Lê Hồng Phong tại Di tích lịch sử Nhà tù Hỏa Lò năm 2018.

Năm 1925, đồng chí gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và tham dự lớp huấn luyện cán bộ do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức, trở thành một trong những cán bộ lãnh đạo lớp đầu tiên của cách mạng nước ta. Đồng chí đã được học tập toàn diện về quân sự và chính trị tại Trường Quân sự Hoàng Phố, Trường Không quân ở Quảng Châu (Trung Quốc), Trường Lý luận Quân sự của lực lượng không quân Xô-viết ở Lê-nin-grat, Trường Đào tạo Phi công quân sự ở Bô-rit-ơ-lep-xcơ (Liên Xô).

Sau khi tốt nghiệp, đồng chí hoạt động trong lực lượng Hồng quân Xô-viết và nhận trọng trách liên lạc giữa Đảng Cộng sản Đông Dương với Quốc tế Cộng sản. Trong thời gian này, đồng chí được học tập lý luận cách mạng một cách hệ thống tại Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Mát-xcơ-va, tốt nghiệp khóa 3 năm (1928 - 1931), sau đó học tiếp năm thứ nhất Lớp Nghiên cứu sinh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Các đồng chí ta như đồng chí Trần Phú, đồng chí Ngô Gia Tự, đồng chí Lê Hồng Phong, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, đồng chí Hà Huy Tập, đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đồng chí Hoàng Văn Thụ và trăm nghìn đồng chí khác đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc lên trên hết, lên trước hết. Các đồng chí đó đã tin tưởng sâu sắc, chắc chắn vào lực lượng vĩ đại và tương lai vẻ vang của giai cấp và của dân tộc... Tất cả chúng ta phải noi theo các gương anh dũng, gương chí công vô tư ấy, mới xứng đáng là người cách mạng”.

Sau cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931), do sự khủng bố dã man và tàn bạo của thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam gặp muôn vàn khó khăn và tổn thất nặng nề. Hầu hết các Ủy viên Trung ương, các Xứ ủy viên bị địch bắt hoặc bị sát hại; hàng trăm cán bộ, hàng ngàn đảng viên bị bắt bớ, tù đày. Các tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở phần nhiều bị tan vỡ hoặc tê liệt. Trước tình hình đó, tháng 11-1931, thực hiện chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng chí về nước để lãnh đạo việc khôi phục, phát triển tổ chức Đảng, đưa cách mạng Đông Dương vượt qua giai đoạn khó khăn, hiểm nghèo.

Đầu năm 1932, đến TP. Nam Ninh, Quảng Tây (Trung Quốc), đồng chí đã liên lạc với các đồng chí trung kiên, cùng vạch ra Chương trình hành động của Đảng, được Quốc tế Cộng sản thông qua, là một văn kiện chính trị quan trọng, khẳng định sự đúng đắn và nhất quán với đường lối cách mạng được Đảng ta vạch ra từ năm 1930, đánh giá cao thắng lợi của quần chúng cách mạng trong cao trào 1930 - 1931; đồng thời nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm trong Đảng và đề ra yêu cầu kiên quyết khắc phục sai lầm, đưa cách mạng tiến lên.

Tháng 3-1934, đồng chí cùng một số đồng chí tiến hành Hội nghị thành lập Ban Lãnh đạo của Đảng ở ngoài nước (lúc đó gọi là Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng), có chức năng như một Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, do đồng chí làm Bí thư, đồng chí Hà Huy Tập là Ủy viên phụ trách công tác tuyên huấn. Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng đã chuẩn bị và quyết định triệu tập Đại hội lần thứ Nhất của Đảng, họp tại Ma Cao (Trung Quốc) từ ngày 27 đến 31-3-1935. Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng, một số văn kiện quan trọng khác và bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 13 Ủy viên, do đồng chí đứng đầu.

Sau đó, đồng chí dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, họp tại Mát-xcơ-va (Liên Xô) từ ngày 25-7 đến 25-8-1935. Đồng chí đã trình bày bản báo cáo quan trọng về cuộc đấu tranh của các dân tộc ở Đông Dương và đã được Đại hội đánh giá cao. Đại hội đã thông qua Quyết nghị công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một phân bộ độc lập của Quốc tế Cộng sản và bầu đồng chí làm Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản.

NGƯỜI CỘNG SẢN KIÊN CƯỜNG

Tháng 11-1937, đồng chí bí mật đến Sài Gòn, cùng Trung ương tích cực chỉ đạo việc thực hiện chủ trương chiến lược mới của Đảng. Ngày 22-6-1939, đồng chí bị thực dân Pháp bắt lần thứ nhất tại Chợ Lớn và kết án 6 tháng tù giam. Tháng 12-1939, chúng đưa đồng chí về quản thúc tại quê nhà ở Nghệ An.

Tuy đã theo dõi chặt chẽ những hoạt động của đồng chí, hòng âm mưu tách đồng chí ra khỏi tổ chức, cắt đứt mối liên lạc với phong trào cách mạng, với Trung ương Đảng, song chính quyền thực dân vẫn lo ngại về sự tự do của người cộng sản này. Vì lẽ đó, khi chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, tháng 1-1940, mật thám Nam kỳ ra Nghệ An bắt đồng chí lần thứ hai và áp giải vào giam giữ tại Khám lớn Sài Gòn.

Khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Hồng Phong nằm giữa một làng quê yên bình thuộc xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.

Trong thời gian gần 1 năm giam giữ, tra tấn, hành hạ, thực dân Pháp vẫn không tìm được lý do để kết tội tử hình đồng chí. Biết đồng chí và đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai là vợ chồng, có con nhỏ được vài tháng tuổi, chúng đã để hai người gặp nhau hòng lung lạc tinh thần, qua đó có cớ khép tội đồng chí liên quan tới “âm mưu lật đổ chính phủ Nam kỳ”, nhưng chúng đã thất bại. Mặc dù vậy, thực dân Pháp vẫn buộc tội đồng chí phải “chịu trách nhiệm tinh thần” cho Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ, kết án 5 năm tù giam và 10 năm quản thúc. Cuối năm 1940, đồng chí bị chúng đày ra Côn Đảo.

Trong những ngày bị biệt giam trong hầm đá hoặc trong banh II (nơi giam giữ tù cộng sản), kẻ thù luôn tra tấn, đánh đập dã man đồng chí hòng làm nhụt tinh thần, ý chí của người lãnh đạo cộng sản. Đây là quãng thời gian đồng chí trực tiếp đối mặt với mọi âm mưu, thủ đoạn dã man và thâm độc nhất của kẻ thù. Có lần, đồng chí vừa bưng bát cơm lên ăn thì bọn cai ngục xông vào đánh, bát cơm của đồng chí bị nhuộm đỏ do máu chảy từ đầu, từ mặt rớt vào, nhưng đồng chí vẫn thản nhiên, tiếp tục ngồi ăn “bát cơm chan máu”, với quyết tâm phải sống để “còn sống còn chiến đấu”. Những trận đòn thù tàn ác, dã man, liên tục làm đồng chí dần dần kiệt sức. Sau nhiều ngày vật vã với những cơn đau, trưa ngày 6-9-1942, đồng chí đã trút hơi thở cuối cùng trong xà lim số 5, banh II, giữ trọn khí tiết của người chiến sĩ cộng sản.

HỮU TƯỜNG (tổng hợp)

Nguồn Ấp Bắc: http://baoapbac.vn/chinh-tri/202209/ky-niem-120-nam-ngay-sinh-tong-bi-thu-le-hong-phong-1902-2022-hien-dang-tron-doi-minh-cho-su-nghiep-cach-mang-ve-vang-cua-dang-va-dan-toc-959226/