Giữa hai trang sách là cuộc đời người lính

Lên đường nhập ngũ năm 1969, sau mấy tháng huấn luyện ở Ninh Bình trong đội hình Sư đoàn 320 B, chúng tôi sớm được tung vào mặt trận, bởi chiến tranh lúc này đã rất gay gắt, quyết liệt. Nhiệm vụ ban đầu của tôi là pháo thủ chiến đấu ở một đơn vị pháo 37 ly thuộc Binh trạm 11, rồi Binh trạm 13 (Cục Vận tải quân sự) bảo vệ con đường vào mặt trận Cánh đồng Chum.

Khép lại những vần thơ rạo rực tuổi thanh xuân, khép lại một tình yêu văn học vô bờ bến, tôi trở thành một người lính chiến thực sự, quần áo tả tơi vì lửa đạn, sống thường trực trên những mâm pháo trực chiến, ngày và đêm đối mặt với máy bay, với bom đạn, ăn ở cũng ngay trên mâm pháo. Và cũng luôn sẵn sàng tinh thần bất kể lúc nào mình cũng có thể ngã xuống trên mâm pháo… (Kể cả không biết bao lần nửa đêm hành quân qua những bãi bom nổ chậm dài hàng cây số, chẳng ai biết trước bom sẽ nổ lúc nào, mình sẽ ra đi lúc nào…).

Ảnh do tác giả cung cấp.

… Thế rồi một ngày, tôi bỗng nhận được quyết định về cơ quan tuyên huấn của binh trạm, cũng ở ngay giữa mặt trận, nhưng trong một cánh rừng già có phần yên tĩnh hơn trận địa chiến đấu. Lúc này ở Binh trạm có nhà văn Phạm Trung Nhân, trung sĩ, trợ lý tuyên huấn. Anh đã từng có truyện ngắn được in ở tạp chí Văn nghệ quân đội. Còn tôi thì cũng vì có thơ in ở báo Văn Nghệ (Tuổi trẻ Trường Sơn), lại có mẹ là một nghệ sĩ hát nên được Binh trạm gọi về để phiên chế ở đội Tuyên văn của Binh trạm mới thành lập và được giao nhiệm vụ viết kịch cho đội Tuyên văn. Thế là từ đây, nhiệm vụ của một người lính là tôi bắt đầu gắn với cây bút: viết kịch bản, viết bản tin “Đường phía trước”…

Và cũng từ đây, những tấm gương người thật việc thật, người tốt việt tốt, những chiến công, những sự tích anh hùng của binh trạm, rồi hình ảnh đẹp đẽ của Chính ủy Dư Cao cũng như của các cán bộ, chiến sĩ… dần nuôi trong tôi một khao khát nhất định một ngày mình sẽ viết một bộ tiểu thuyết về cuộc chiến đấu hào hùng của cán bộ chiến sĩ Binh trạm, mà tôi tin những sự tích này sẽ vào đi vào lịch sử, và tiểu thuyết này tôi thầm nghĩ dù mình viết được 200 trang, hay 300 trang… thì cũng chỉ đặt một cái tên rất giản dị nhưng rất hàm súc là “Binh trạm”, với lời đề tựa mang tất cả tấm lòng của tôi: “Kính tặng Binh trạm 13 thân yêu”…

… Năm tháng qua đi, 42 năm sau, không biết có là đáng trách hay không, tôi mới có thể bắt tay vào thực hiện được khao khát ngày ấy, dù khao khát này luôn day dứt trong tôi. Có một dịp, tôi cùng những người bạn Nguyễn Hiệp, Nguyễn Hiếu, Bùi Lê Huyên, Trần Minh Văn, Trịnh Dũng… có một chuyến đi sang thủ đô Viêng Chăn của nước bạn Lào và được một người con trai của Chủ tịch Xuphanuvông đang giữ cương vị là Thứ trưởng trong Chính phủ Lào, cũng như đại sứ của ta ở Lào lúc ấy là nhà thơ Tạ Minh Châu đón tiếp rất ân tình. Đêm ấy trong một khách sạn tầm cỡ 5 sao ở Viêng Chăn, khi các bạn đã yên ngủ, riêng tôi lại nằm… khóc.

Nước mắt cứ dào ra khi nhớ lại tuổi 17 của mình với chiếc ba lô cóc và khẩu súng trên vai. Một đêm chiến tranh, lội qua Nậm Tiền, Nậm Mật, khi thì nước sông loang loáng ánh bạc, khi thì bừng sáng vì pháo sáng quân thù… Nước bạn Lào là đây. Chúng tôi trở thành những người lính tình nguyện sang kề vai sát cánh cùng bạn… Vâng, cái đêm tuổi 17 lần đầu sang Lào ấy, có bao giờ tôi dám nghĩ rồi một ngày người lính năm ấy là tôi sẽ bay trên một chiếc Boeing 777 đến thủ đô của bạn Lào như hôm nay, lại được những người con thân yêu của Lào đón tiếp trọng thị và cờ hoa rực rỡ thế này…

… Khóc, lại nhớ những cánh rừng, những con đường, những trọng điểm… Nậm Tiền, Nậm Mật, đèo Đất đèo Đá, rồi Bản Ban, Phunokok… mà đồng đội của mình trong những ngày chiến tranh đã chiến đấu vô cùng gian khổ, vô cùng anh dũng để giúp các bạn Lào giành lại Cánh đồng Chum, để giải phóng nhân dân các bộ tộc Lào. Chính ủy Dư Cao của tôi, Binh trạm trưởng Việt Sinh của tôi, thủ trưởng Hạnh, thủ trưởng Nho, thủ trưởng Độ, anh Trung Nhân, Ngô Quốc Lập, Phan Hữu Chính của tôi…Ai còn, ai mất? Bao sự tích hào hùng những năm tháng ấy, bao vẻ đẹp cao quý của người lính những ngày tháng ấy, lẽ nào theo nước con suối kia, theo con gió cánh rừng kia, một đi không trở lại? Không, không và không! Nước có thể trôi, gió có thể bay, nhưng những chiến công và cuộc đời các anh - những cán bộ, chiến sĩ của Binh trạm 13 của chúng ta, sẽ phải còn lại mãi, đọng lại mãi, không một cái gì có thể làm mất đi hay làm phai mờ...

Và văn học sẽ và phải làm được điều này…

… Sau chuyến đi Viêng Chăn ấy, với sự thôi thúc của tâm hồn, tôi đã từ TPHCM bay ra Vinh, rồi theo con đường 7 trở lại những con đường, những cánh rừng năm xưa. Tôi đã quỳ xuống vã lên mặt mình nước dòng sông Lam, quỳ xuống uống con nước trong vắt của sông Nậm Mật, Nậm Tiền… Và rồi đêm ấy, đã bắt đầu những dòng viết đầu tiên cho câu chuyện này:”Bạn ơi, tôi sẽ kể bạn nghe/Một câu chuyện về rừng và những năm tháng ấy”

*

Tôi là một người lính viết văn trưởng thành từ những mâm pháo, những con đường ra trận, từ mặt trận Cánh Đồng Chum... Tôi chiến đấu thực thụ ở đây chỉ 5 năm, nhưng suốt 50 năm qua, tôi như thể vẫn là một người lính của binh trạm 13, vẫn viết bằng cây bút mà binh trạm, chính ủy Dư Cao, rộng ra là Quân đội giao tôi ngày nào. Và chỉ viết về những người lính, những đồng đội thân yêu của mình. Có thể kể đến các vở kịch dài: Những bạn trẻ của tôi, Người mẹ và cánh rừng (Từng được các nghệ sỹ Trung ương, Hậu cần quân đội và TPHCM biểu diễn trên làn sóng truyền hình). Có thể kể đến các tập truyện ngắn: Những tầng cây săng lẻ( NXB Lao Động 2014), Binh Trạm phía Tây ( NXB Quân đội 2015), tiểu thuyết “ Tiếng chim hót lảnh lót cánh rừng”(NXB Lao động 2014), đây cũng là tiểu thuyết được Giải thưởng Bộ Quốc phòng về văn học, nghệ thuật 5 năm 2009 – 2014. Và mới đây nhất là tiểu thuyết “ Lửa sáng phía chân trời” . Ngay khi viết xong bản thảo, tôi in làm hai bản, một bản gửi “ Chương trình đầu tư sáng tác VHNT đề tài LLVT và chiến tranh cách mạng giai đoạn 2014 – 2019 của Bộ Quốc phòng”- sau đó it ngày, tôi được thông báo tiểu thuyết “Lửa sáng phía chân trời” đã được đưa vào Chương trình . Và một bản cất trong ba lô, đợi chờ tới chuyến đi cùng các cựu chiến binh thăm lại chiến trường xưa. Sung sướng là tôi đã thực hiện được mong ước với tiểu thuyết này, là được đứng trên đỉnh núi cao Phu Nốc Cốc nơi mình đã chiến đấu năm xưa, ném vào không gian trời đất nước Lào, để gửi tặng cho gió, cho rừng, cho suối sâu, đèo cao, cho cỏ cho cây, cho những đồng đội cùng chiến đấu năm xưa, cho những người dân Lào hiền lành thuần phác. Và cho các bạn của tôi cùng lớp trẻ hôm nay, ."

Trái tim người lính

CCB Triệu Phong

Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/giua-hai-trang-sach-la-cuoc-doi-nguoi-linh-a22209.html