Độc đáo phiên chợ trên biển đá

Từ bao đời nay, đối với đồng bào vùng cao, mỗi phiên chợ không chỉ là địa điểm buôn bán, trao đổi hàng hóa mà còn nơi gặp gỡ, giao lưu, kết bạn. Cũng với ý nghĩa quan trọng như thế, chợ phiên Xá Nhè luôn là một kho tài sản tinh thần vô giá đối với đồng bào các dân tộc ở huyện Tủa Chùa, tỉnh Điện Biên.

Đậm đà hương vị vùng cao

Đã có thời người ta gọi Tủa Chùa là “Vương quốc đá”. Đá giăng khắp từ nương cao đến ruộng thấp, rồi còn theo chân người “bò” vào đến tận sàn nhà. Ở vùng đất này, đứng trên bất cứ ngọn núi nào ngoái về bốn phía đều thấy rặt một màu xám lạnh. Xưa kia, khi núi rừng còn hoang rậm, giao thông trắc trở, đời đời kiếp kiếp đồng bào ở đây chìm lút trong đói nghèo, lạc hậu.

Thế nhưng, kể từ khi được Đảng và Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cùng với nhiều chính sách đầu tư khác, các làng bản ở đây đã dần thay da đổi thịt, cuộc sống của đồng bào cũng khá dần lên. Minh chứng cho điều này là sự đa dạng và sầm uất của những phiên chợ mọc lên trên biển đá như Xá Nhè hay Tả Sìn Thàng.

Chợ Xá Nhè chủ yếu là hàng nông sản của đồng bào.

Chợ Xá Nhè không ai biết rõ được hình thành từ bao giờ, ngay cả những người già nhất ở đây cũng chỉ biết “khi tôi sinh ra, chợ đã có rồi!”. Cứ 6 ngày chợ họp 1 lần nhưng được tổ chức lùi ngày, nếu tuần này họp vào ngày thứ Tư thì tuần sau sẽ là thứ Ba và tuần kế tiếp sẽ vào thứ Hai... Đây không chỉ là nơi mua bán, trao đổi hàng hóa, mà còn là chỗ để giao lưu, kết bạn của các dân tộc trong vùng.

Ngay từ khi mặt trời chưa ló rạng, trên khắp các cung đường từ các xã lân cận như Xá Nhè, Mường Đun, Tủa Thàng, Mường Báng... đã sặc sỡ váy áo của đồng bào xuống chợ. Họ dũi lút vào màn sương mờ phủ, vai mang vác những sản vật của núi rừng xuống chợ. Trời càng sáng, các sắc màu xanh, đỏ, tím, hồng của váy áo các bà, các mẹ và thiếu nữ các dân tộc càng sặc sỡ, trông xa giống như những nhành hoa di động.

Cũng giống như muôn vàn các phiên chợ vùng cao khác, Xá Nhè chủ yếu chỉ bán nông sản của đồng bào. Có một điểm chung là dù bán đồ lưu niệm hay hàng thổ cẩm, tất cả các quầy lều đều sặc sỡ sắc màu. Xung quanh chợ là vách đá xám dựng trời. Có những ông già bà cả, răng chiếc còn chiếc mất, cũng đạp mây gùi hàng đến chợ. Hàng của họ là mấy bắp ngô, bó rau cải mèo, măng rừng, cơm lam… Những thứ không phải buôn mà kiếm từ nhà hoặc rừng mang ra bán.

Ngoài sản vật địa phương, chợ Xá Nhè giờ có đủ loại hàng hóa đến từ “vùng thấp” như đồ điện tử, điện lạnh, hàng hóa công nghiệp, bánh kẹo, hương hoa… Nhưng có ba thứ đặc sản không thể thiếu là “lợn cắp nách”, “gà chạy bộ” và rượu mông pê của đồng bào Mông.

Nếu như rượu cũng được bà con dân bản mua khá nhộn nhịp thì “lợn cắp nách”, “gà chạy bộ” hầu hết là tư thương mua buôn về bán lại tại chợ huyện hay chuyển về các huyện, thị, đặc biệt là TP. Điện Biên Phủ. Cũng có nhiều cán bộ dưới xuôi lên công tác, cố gắng mua con lợn bản, đôi gà đen Tủa Chùa về làm quà.

Niềm vui theo mẹ đi chợ.

Đi chợ phiên, trong khi các bà, các mẹ tất bật sắm sửa nhu yếu phẩm cho gia đình như mắm, muối, mì chính, bánh kẹo, đôi dép mới… thì các thiếu nữ lại say mê lựa chọn vải thổ cẩm, áo, chỉ màu, gương lược và đôi hộp phấn son nho nhỏ. Đám thanh niên mới lớn thì tập trung quanh hàng điện thoại di động để ngắm nghía, chọn mua hay chỉ để tải những bài hát “hot” nhất về điện thoại của mình.

Bạc tóc mưu sinh

Miền núi trời thường rét sớm. Cái rét như cắt cứa thịt da. Đó là chưa kể đến mây mù, có khi đứng chỉ cách vài bước đã khó thấy mặt nhau. Thế nhưng, bất kể có sương mù hay giá rét, ở phía góc chợ Tả Sìn Thàng, bà Sùng Thị Sạ, người Mông, ngoài 70 tuổi, ngồi lặng lẽ bên mấy cái giỏ đựng đũa tre, xung quanh còn có thêm ít ngô, khoai, măng và nấm. Những hôm trời rét, bà phải đốt thêm vài thanh củi cho đỡ lạnh. Ánh lửa lóe lên khó nhọc, khói bay lên tràn trụa. Bà úp đôi tay gân guốc vào bếp than vậy mà người vẫn run cầm cập...

Do nhà xa, đường núi, hôm nào có phiên chợ là bà Sạ đều phải dậy từ 1-2 giờ sáng sửa soạn hàng hóa rồi cứ thế dũi lút vào sương sớm mà đi. Những hôm trời quang còn đỡ, khổ nhất là những ngày đông giá hay mưa gió, có khi xuống đến chợ, cả bà và hàng hóa đều tả tơi, ướt rượt.

Xa xôi, vất vả, cực nhọc là vậy nhưng hầu như rất ít khi bà Sạ bỏ sót một phiên chợ nào. Cả đời cắm cúi leo núi, đi nương, xuống chợ nên cái lưng của bà cứ còng xuống mãi, còn mấy ngón chân xòe ra như người Giao chỉ.

“Cũng muốn ở nhà lắm chứ, nhưng nếu chỉ trông vào ruộng nương thì biết lấy gì mà ăn. Con cái đứa nào cũng phải lo cuộc sống gia đình cũng vất vả rồi, lo cho mình sao được. Mình tuy già nhưng cái chân còn khỏe, còn leo núi, xuống chợ được thì cứ đi thôi. Kiếm được đồng nào hay đồng ấy”, bà Sạ tâm sự. Nhớ hồi đầu lên đây bán xong trở về chân bà đi không nổi. Nhưng thấy hàng hóa đem lên chợ bán cao hơn tại nhà một hai giá nên đôi chân già lại lê lết.

Cứ thế, người này rỉ tai người kia, dần dần những người già trong bản như bà Sạ đều rủ nhau đi buôn chợ. Sáng sớm ngày diễn ra phiên chợ, họ gùi hàng lên bán được chừng nào thì bán không thì gùi về. Nhiều khi, họ còn gùi bán thêm cả ngô nướng để tăng thu nhập. Hết mùa ngô, họ quay sang mặt hàng bằng măng rừng, cải mèo…

Nếu đắt hàng, một buổi chợ các bà có thể kiếm một vài trăm ngàn, thu nhập như thế cũng cao hơn nhiều so với làm nương hay đi rừng. Thế nhưng, cũng có ngày gùi hàng đi bao nhiêu thì mang về bấy nhiêu. Dù có như vậy thì phiên chợ sau họ vẫn lầm lũi mang hàng xuống chợ, bất chấp chuyện có bán được hàng hay ế ẩm, bất chấp cả tuổi già chưa biết sẽ kéo đôi chân ngã quỵ lúc nào. Tất cả chỉ vì miếng cơm, manh áo.

Ngồi kế bên sạp hàng của bà Sạ là hàng rau của ông Giàng A Chớ, 62 tuổi, ở Xá Nhè. Vợ ông, bà Sùng Thị Mẩn (61 tuổi) mang dăm cây mía ra đường bán, ông ngồi trông hàng thay cho vợ. Ở tuổi gần đất xa trời, vợ chồng ông Chớ chả có gì gọi là tài sản. Căn nhà gỗ già cỗi, xập xệ nằm hiu hắt bên sườn núi. Bốn cột nhà chằng vào một tảng đá lớn nằm lọt thỏm giữa đám lau lách vượt mặt. Tường nhà được ghép từ gỗ tạp, nền và chân tường được xếp bằng đá, thứ ở vùng đất này rất sẵn, sờ đâu cũng thấy. Nếu muốn tìm trong căn nhà cũ kỹ ấy một thứ gì giá trị thì đó chỉ có thể là chiếc tivi lúc lên hình lúc không.

“Đất dưới kia chật hết rồi. Con cái lại đông nên phải nhường đất cho chúng làm ăn. Hai ông bà già kéo nhau lên đây dựng nhà rồi gieo trồng được thứ gì ăn thứ nấy thôi”, ông Chớ vừa nói vừa chỉ tay xuống cái thung lũng lèn chặt mây mù. Mang tiếng là nhà gần, song mỗi lần xuống chợ vợ chồng ông cũng phải mất đến gần tiếng đồng hồ đi bộ.

Cuộc sống đổi thay nhờ chợ

Ông Chớ kể, ngày mới lên núi, nhà chẳng có gì ăn. Nhưng rồi những đôi chân già nua, những đôi tay mang đủ thứ bệnh về xương vẫn phải lần mò lật từng viên đá, tìm từng hốc đất để trỉa ngô, gieo lúa nương… Lạ thay, những vụ mùa trầy trật như thế vẫn có thể giúp họ bám trụ ở nơi được mệnh danh là “Vương quốc đá” này.

Ông Chớ bảo: “Ngày xưa làm nông dân ở đây sướng lắm. Đất rừng rộng mênh mông, chẳng cần phải tranh chấp với ai. Muốn nhiều hay ít thì tùy thuộc vào việc mình có lật được nhiều đá không thôi. Muốn làm bao nhiêu thì làm. Giờ thì chính quyền giao khoán cho từng hộ rồi”.

Ngay dưới chân nhà ông Chớ, có một con suối nhỏ. Cả xóm chung nhau nguồn nước đó, nhưng cứ nửa năm có nửa năm không. “Ngày xưa mỗi khi mùa hạn, nhà nào cũng vậy, đàn ông thường là người có trách nhiệm vào rừng kiếm củi và mang can nhựa đi lấy nước. Giờ thì đỡ nhiều rồi, vì bà con đã mua được ống dẫn từ các khe trên núi về dùng”.

Kể từ ngày theo mọi người xuống chợ, tập tành buôn bán, cuộc sống của vợ chồng ông Chớ cũng sáng sủa lên, bữa cơm đã không còn chỉ có cơm và canh rau rừng lõng bõng mà còn có thêm thịt cá. Nhưng đối với ông Chớ, cái được lớn nhất là được giao lưu với thế giới bên ngoài. “Chân còn bước được thì phải đi thôi, ở trong xó núi này có khi chết cũng chẳng ai biết được”, ông Chớ tâm sự.

Chợ Xá Nhè còn là nơi giao lưu, kết bạn.

Xóm chỉ vỏn vẹn có vài nóc nhà nên ông Chớ có thể đọc tên từng hộ. Hộ trẻ nhất là gia đình ông Sùng A Gia cũng đã 53 tuổi. Nghe ông Chớ nói thì đây là gia đình khá giả nhất bản. Trong nhà ông Gia có đủ tivi, tủ lạnh, nồi cơm điện, còn ngoài vườn có thêm vài con gà với dăm ba con bò, con lợn. “Xưa nhà chúng tôi khổ lắm, mới chuyển về đây được hơn hai chục năm. Bám chợ, nhờ chợ nên mới được như bây giờ. Nhiều khi chúng tôi còn gọi vui đây là chợ “xóa đói, giảm nghèo””, ông Gia cười dí dỏm.

Hàng ngày, ông Gia vượt “biển đá”, lang thang vào rừng tìm cây thuốc. Trong gùi của ông ngoài con dao rừng thì luôn có đùm cơm mà bà vợ nắm vội để ông ăn phòng khi đói bụng. Suốt ngày leo rừng như thế, đến phiên chợ ông lại gùi hàng xuống chợ cho vợ bán. Giờ thuốc tây, thuốc ta nhiều, mấy nắm lá rừng của ông cũng ít được người ta ưa chuộng.

Ngày ế nhiều hơn ngày bán đắt, cuộc sống của vợ chồng ông mỗi ngày thêm khó. Nhưng nhiều tháng, nhiều năm nay, ít khi nào vợ chồng ông bỏ chợ. Bởi chỉ cần nhãng một vài phiên, gạo trong nhà cũng sẽ vơi đi...

Cứ thế, hết phiên chợ này đến phiên chợ khác, những người già như bà Sạ, ông Chớ, ông Gia cứ lầm lũi mưu sinh. Cuộc mưu sinh của họ không buồn, cũng không vui, lặng lẽ như con suối chảy dưới chân đồi. Nhưng chính nhờ họ, nhờ những sắc áo thổ cẩm, nhờ những măng, ngô, khoai, sắn và nhờ cả những khuôn mặt thật thà, chất phác của họ đã tạo nên một phiên chợ đậm đà hương sắc vùng cao.

Nguồn Bảo Vệ Công Lý: https://baove.congly.vn/doc-dao-phien-cho-tren-bien-da-395872.html