Điện tái tạo có tỷ lệ nội địa hóa cao có thể mang lại cho Việt Nam 160 tỷ USD

Giai đoạn 2025 - 2050, ở các mảng năng lượng mà Việt Nam có thế mạnh nội địa hóa cao gồm điện gió trên bờ, điện gió ngoài khơi và điện mặt trời, có thể mang lại 160 tỷ USD lợi nhuận, tương đương 1,02% GDP của Việt Nam trong cùng giai đoạn.

Tỷ lệ nội địa hóa lĩnh vực năng lượng tái tạo còn thấp

Phát biểu tại Diễn đàn Công nghệ và Năng lượng Việt Nam 2023 (lần thứ VI) tổ chức chiều ngày 14/12 tại Hà Nội, Phó Cục trưởng Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ (Bộ Khoa học và Công Nghệ) Trần Thị Hồng Lan thông tin, nhờ những chính sách và hành động mạnh mẽ của Chính phủ thời gian qua, Việt Nam đã trở thành thị trường sôi động bậc nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương và dẫn đầu Đông Nam Á trong lĩnh vực phát triển điện gió và điện mặt trời.

Tính đến cuối năm 2022, tổng công suất nguồn điện toàn hệ thống đạt 79.250 MW, trong đó tổng công suất các nguồn điện năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) đạt khoảng 20.165 MW, chiếm tỷ trọng 25,4%.

Tuy nhiên, bà Lan nhận định, tỷ lệ nội địa hóa chuỗi cung ứng cũng như sự tham gia sâu của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc cung cấp các dịch vụ cho lĩnh vực năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) còn thấp. Dữ liệu thống kê cho thấy, các dự án năng lượng tái tạo ở Việt Nam vẫn nhập khẩu gần như 90% thiết bị từ Trung Quốc, Đức, Ấn Độ và Hoa Kỳ.

“Việc chậm nội địa hóa sản xuất thiết bị và dịch vụ trong lĩnh vực năng lượng tái tạo tại Việt Nam một phần do còn thiếu năng lực đánh giá, phát triển dự án, cơ sở hạ tầng kém và phụ thuộc vào nước ngoài. Bên cạnh đó, năng lực công nghệ, trình độ sản xuất chưa đáp ứng được yêu cầu. Ngoài ra, chính sách và cơ chế hỗ trợ công nghiệp hỗ trợ cho điện tái tạo còn thiếu hoặc chưa đủ mạnh”.Bà Trần Thị Hồng Lan, Phó Cục trưởng Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ

Nội địa hóa năng lượng tái tạo sẽ mang về 160 tỷ USD lợi nhuận

Theo bà Vũ Chi Mai, Giám đốc Dự án Năng lượng sạch, chi phí hợp lý và an ninh năng lượng cho các nước Đông Nam Á (CASE) tại Việt Nam, ở các mảng Việt Nam có thế mạnh nội địa hóa cao gồm điện gió trên bờ, điện gió ngoài khơi và điện mặt trời, lộ trình phát triển điện gió và điện mặt trời giai đoạn 2025 - 2050 có thể mang lại 160 tỷ USD lợi nhuận cho Việt Nam, tương đương 1,02% GDP trong cùng giai đoạn, xấp xỉ giá trị của ngành công nghiệp và xây dựng Việt Nam năm 2022 với 155 tỷ USD.

Theo nghiên cứu của CASE, thực hiện lộ trình này, tỷ lệ nội địa hóa sẽ tăng từ 45% ở thời điểm hiện tại tới gần 80% vào năm 2050 đối với điện mặt trời, và từ 37% hiện tại lên 55% vào năm 2050 đối với điện gió. Trong giai đoạn 2025 - 2050, giá trị nội địa hóa trong lĩnh vực năng lượng tái tạo ước đạt 80 tỷ USD, chiếm 50% tổng tiềm năng thị trường.

Bà Vũ Chi Mai, Giám đốc Dự án Năng lượng sạch, chi phí hợp lý và an ninh năng lượng cho các nước Đông Nam Á (CASE) tại Việt Nam phát biểu tại diễn đàn.

Bà Mai cho rằng, nếu mục tiêu về công suất đặt của điện gió và điện mặt trời trong trong Quy hoạch điện VIII đạt được, Việt Nam được dự báo có tiềm năng thị trường tương đối lớn. Tuy nhiên, điều kiện hiện tại là chưa đủ để triển khai tỷ lệ đảm bảo khả năng thanh khoản. Cần tiếp tục hỗ trợ về điều kiện tài chính và lực lượng lao động lành nghề.

Đại diện CASE tại Việt Nam cũng cho rằng, ở giai đoạn đầu cần thúc đẩy hơn nữa nội địa ở các công đoạn, phát triển dự án, lắp đặt/xây dựng và đấu nối. Về sản xuất có thể tiếp tục 2 lĩnh vực đã có thế mạnh. Thứ nhất điện mặt trời gồm máy biến áp và cáp, hệ khung, đơn vị điều khiển điện, tấm quang điện; thứ hai điện gió gồm máy biến áp và cáp, thiết bị nền móng…

“Cần tiếp tục đánh giá năng lực của các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị điện gió và điện mặt trời, bao gồm cả các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ. Đồng thời, đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển, chuyển giao công nghệ, các dự án thử nghiệm, phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng,... để tối đa nội địa hóa”, bà Mai nhấn mạnh.

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Ngọc Hưng, đại diện Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) khẳng định, Việt Nam có cơ hội lớn để thúc đẩy nội địa hóa năng lượng tái tạo bằng việc tham gia vào chuỗi cung ứng sản xuất thiết bị năng lượng tái tạo; có cơ hội tham gia vào đầu tư, vận hành, bảo dưỡng dự án điện năng lượng tái tạo và thúc đẩy chuyển đổi việc làm xanh năng lượng tái tạo.

Phân tích về khả năng nội địa hóa với dự án điện gió ngoài khơi, ông Hưng cho biết tỷ lệ này gần 40% cho hạng mục gồm quản lý dự án, cung cấp phần móng, đường dây truyền tải, trạm biến áp trên bờ và ngoài khơi, cảng xây dựng và vận hành bảo trì.

Do đó, ông Nguyễn Ngọc Hưng đề xuất cần có quy hoạch rõ chiến lược và hoàn thiện minh bạch thủ tục, giá bán điện hấp dẫn, tập trung nghiên cứu, phát triển lĩnh vực ưu tiên trong chuỗi cung ứng thiết bị và đầu tư cơ sở hạ tầng.

Các đại biểu tham gia thảo luận tại diễn đàn. Ảnh: Thu Thảo.

Chia sẻ kinh nghiệm từ Indonesia, ông Fabby Tuwina, Giám đốc điều hành Viện Cải cách Dịch vụ thiết yếu Indonesia (IESR) cho biết tại quốc gia này, điện mặt trời tăng trưởng theo cấp số nhân.

Tính đến cuối năm 2023, công suất điện mặt trời của Indonesia dự kiến đạt khoảng 0,8 đến 1 GWp. Để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 tới năm 2030 và năm 2050, các nghiên cứu chỉ ra công suất điện mặt trời cần phải tăng trưởng 4,4-15,3 GWp đến 2030 và từ 12,3-69,2 GWp trong giai đoạn 2030 - 2050. Do đó, Indonesia đã đặt mục tiêu nội địa hóa trong phát triển pin mặt trời đạt 40% đến năm 2030.

Ông Fabby Tuwina nhấn mạnh, nội địa hóa trong phát triển điện mặt trời giúp tạo việc làm xanh và giảm nhập khẩu từ nước ngoài. Ngành điện mặt trời có thể tạo ra 1.300 việc làm trong lĩnh vực sản xuất, chế tạo trên mỗi gigawatt công suất điện tạo ra.

Bên cạnh nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, các mục tiêu thúc đẩy hàm lượng nội địa hóa nhằm đáp ứng nhu cầu điện năng và thực hiện mục tiêu năng lượng tái tạo theo chính sách năng lượng quốc gia.

Dù tiềm năng thị trường điện mặt trời rất lớn, ước tính vốn đầu tư hàng năm đạt 2-7 tỷ USD đến năm 2030, đại diện IESR cho biết, bên cạnh đó cũng tồn tại nhiều thách thức lớn như: điện mặt trời mái nhà hạn chế công suất lắp đặt chỉ dưới 15% làm thu hẹp thị trường của tấm quang năng trong nước; các sản phẩm sản xuất trong nước chỉ có 5% được đưa ra thị trường.

Rút ra từ bài học kinh nghiệm của Indonesia, ông Fabby Tuwina gợi ý cần xây dựng lộ trình cụ thể nhằm cung cấp đủ tín hiệu thị trường để phát triển ngành công nghiệp sản xuất tấm quang năng. Tiếp theo cần sự hỗ trợ của ngành công nghiệp hạ nguồn cung cấp nguyên liệu thô để giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm cuối cùng.

Thu Thảo

Nguồn Mekong Asean: https://mekongasean.vn/dien-tai-tao-co-ty-le-noi-dia-hoa-cao-co-the-mang-lai-cho-viet-nam-160-ty-usd-post30121.html