Chiếu cói ở 'núi vàng'

Từ trước năm 1829, đời vua Minh Mạng (1820-1840), với cương vị là Doanh điền sứ, Nguyễn Công Trứ tài ba đã chiêu mộ dân đi khai hoang vùng ven biển phía Đông Nam của tỉnh Ninh Bình. Đến tháng 3 (âm lịch) năm 1829, vua Minh Mạng quyết định thành lập ở đây một huyện mới, lấy tên là Kim Sơn (Núi Vàng). Từ đó huyện Kim Sơn chính thức có tên trên bản đồ tỉnh Ninh Bình.

Làm hàng cói tại Doanh nghiệp tư nhân Kim Thành. Ảnh: Thái Học

Miền đất trẻ sinhra cây cói

Ngay từ thời ấy,người dân Kim Sơn đã trồng cây lúa và cây cói. Họ còn lưu truyền một huyềnthoại lý thú: Thời xa xưa, đã lâu lắm rồi, có một bầy tiên nữ bay qua cùng biểnnơi đây. Thấy biển rộng mênh mông sóng sánh phù sa màu mỡ, nàng tiên út củatrời mến cảnh đẹp ấy, đã cắt mái tóc dài mượt, óng ả của mình ném xuống để đánhdấu vùng biển. Gió thổi, sóng vỗ ngày đêm đã đẩy những sợi tóc của nàng trôidạt vào bờ, gặp đất sa bồi, mọc lên thành rừng cây nhỏ, cao, thân xanh mỡ, trònthon từ gốc, nửa trên đến ngọn vuốt thành 3 cạnh, búp hoa chụm chúm xanh, gọilà cây cói. Chu kỳ sinh trưởng của cây cói cũng gần như cây lúa. Cói vụ chiêmcũng thu hoạch vào tháng 5, còn cói vụ mùa thu hoạch vào tháng 10 (âm lịch).Khi hoa cói héo thì người dân thu hoạch cói. Con người lấy cây cói về phơi chỉđể lợp nhà, rồi đến một lúc nào đó, phát hiện ra nó, khi thân ngả vàng (đãchín), cắt sát gốc, bỏ chùm hoa trên ngọn, chẻ đôi, phơi kỹ, đem dệt với sợi vỏcây đay làm thành chiếu để nằm. Từ đó nghề trồng cói và dệt chiếu đã có trênđất Kim Sơn.

Cây cói mới có ởmiền đất trẻ này gần hai thế kỷ. Nhưng nó đã có vị trí quan trọng trong nềnkinh tế của huyện. Diện tích trồng cói ở Kim Sơn hiện nay có khoảng 600 ha.Bình quân sản lượng cói hàng năm đạt từ 7.000 đến 8.000 tấn cói chẻ. Không chỉngười dân Kim Sơn trồng cói, mà sau khi huyện Kim Sơn đắp đê lấn biển, bộ đội quaiđê lấn biển cũng trồng cói. Cây cói đã là cây mũi nhọn, không chỉ đem lại hiêụquả kinh tế cao, mà còn có tác dụng tham gia cải tạo bãi bồi ngập mặn.

Cây cói lên ngôi

Người dân Kim Sơnđã dùng cây cói làm thành nhiều sản phẩm như: Chiếu, thảm, làn, khay, hộp, đĩa,cốc, tách, túi xách, mũ … Những sản phẩm này đã vươn tới gần 20 nước trên thếgiới. Nhưng chủ yếu họ dệt các loại chiếu như: Chiếu trơn (chiếu không cảihoa); chiếu đàn (chiếu trơn vào loại xấu), chiếu đậu (chiếu màu trắng ngà, làmbằng thứ cói tốt); chiếu hoa còn gọi là chiếu bông (chiếu có cải hoa hoặc inhoa), chiếu gon (chiếu dệt bằng thứ cói thân cao và dài), chiếu liền (chiếu hẹpkhổ và dài), chiếu cạp (chiếu mép có viền vải); chiếu lõi; …

Chiếu cải hoa vàchiếu đậu là mặt hàng đặc sản của Kim Sơn.

Chiếu cải hoa cóbố cục đối xứng chặt chẽ đến nghiêm ngặt: cạp điều rộng, đường chỉ thẳng, 4 gócvà xung quanh là những hoa văn đẹp, chữ “Thọ” bằng Hán tự tròn truyện vuông ởgiữa, hai đường thẳng và cong biến cải hoa mỹ uyển chuyển ở hàng riễu 4 bên vàtụ lại. Trên và dưới chữ “Thọ” còn có các hàng chữ cải: “Chúc mừng”, “Hạnhphúc” hoặc “Cung chúc”, “Tân Xuân” hài hòa, đẹp đẽ như một tác phẩm nghệ thuật,không tả hết thành lời.

Chiếu chỉ có 2màu: đỏ tươi và trắng hồng. Màu trắng hồng là màu nền của chiếu, nõn nà nhưlụa. Màu đỏ tươi rực rỡ là màu cải hoa, cải chữ, thể hiện ước mơ của con người.

Khó khăn nhất vẫnlà dệt chiếu đậu, đòi hỏi cầu kỳ và tinh xảo hơn. Phải chọn cói kỹ, sao chođều, trắng ngà, dài thon, tròn tắp, mỗi sợi chỉ nhỉnh hơn cái nan hoa xe đạp.Sợi đay phải săn, nhỏ, mịn. Khi dệt phải làm cho chiếu có múi nổi nho nhỏ, gọilà múi na, trông như một kiểu hoa văn tự nhiên. Lá chiếu đậu đẹp một cách sinhđộng, chắc, thơm, bền đến 5-7 năm chưa rách. Chiếu đậu không chỉ bền, mà còn lànét đẹp trắng trong, càng nhìn càng thấy đẹp. Đó là một nép đẹp tinh khiết,trinh nguyên của cây cói, không màu sắc, không đua tranh, như tâm hồn thầm kíncủa người con gái kín đáo, dịu dàng.

Để làm ra một làchiếu cải hoa và chiếu đậu là cả một quá trình lao động sáng tạo, vất vả, thậntrọng của người dân từ khâu trồng cói, chọn cói sao cho dài và đều, phơi cóisao cho trắng nõn, nhuộm cói sao cho đỏ tươi và bền màu, sợi đay dệt phải nhỏvà bền, đến khâu dệt cải hoa mang tính nghệ thuật cao. Người ngồi dệt chiếu,hai bàn tay cầm go đập vào, lại đẩy ra thoăn thoắt, đập go đến đâu bẻ biên đếnđó, hết tay phải lại tay trái, ngón tay bắt biên như múa. Go làm bằng tre, cónhiều thanh như phím đàn pianô, mỗi thanh một lỗ giữ một sợi đay. Đập go mạnh,lá chiếu sẽ dày. Ngón tay cắt dát phải khéo léo, mềm mại như một nghệ sỹ bắtđàn phím. Mắt phải tinh, chính xác, thuộc từng nét cải để không đan lỗi. Nétchữ, đường họa tiết, hoa văn, đường chỉ cải to hay nhỏ, vuông hay tròn đều phảitheo mẫu, tính chi li đến từng sợi cói, sợi đay dệt. Tùy từng kiểu hoa văn màcắt dát từng sợi, để khi đệt khi thay đổi màu cói (xanh, đỏ, vàng, tím, trắng)lá chiếu sẽ nổi các loại hoa (hoa vuông, hoa cải chữ, hoa cánh, hoa núi,…).

Còn người văngcói phải để bên hai bó cói trở ngọn, gốc nhặt từng sợi cói, quấn vào đầu văng,lao nhanh vào giữa hai dàn sợi day. Nguyên tắc văng cói là: cứ 1 gốc lại 2ngọn, 2 gốc lại 1 ngọn (nếu dệt chiếu đàn chỉ 1 gốc, 1 ngọn). Văng cói phảinhịp nhàng theo người dệt. Sự thuần thục của 2 người văng và dệt chiếu giốngnhư bác sỹ và người mổ phụ trong ca phẫu thuật, tới mức không cần nhìn nhau vẫnhòa nhập, hoàn hảo.

Nhìn lá chiếu cảihoa nền nã và rực rỡ với nét chữ, hoa văn trang trí, mang vẻ đẹp truyền thốngcủa dân tộc, do bàn tay vàng, khéo léo, tỷ mỉ, tinh xảo của người dân Kim Sơntạo ra, ai cũng muốn có một đôi chiếu “để nằm” trên “hạnh phúc”, chữ “thọ” đểsống lâu khỏe mạnh, ước mơ nảy nở vuông tròn trong cuộc đời, tất cả như đã dệtvào lá chiếu.

Sợi nối giữa Vănhóa - Kinh tế - Dulịch

Ngày nay, người dânKim Sơn coi nghề dệt chiếu cải hoa và chiếu đậu là nghề truyền thống. Các xãLưu Phương, Chính Tâm, Kim Trung, Thượng Kiệm, Văn Hải… của huyện, mỗi năm, môĩxã sản xuất được từ 50.000 đến 70.000 lá chiếu. Trong toàn huyện, gần như nhànào cũng có khung dệt chiếu. Sau những ngày thu hoạch lúa, người dân Kim Sơngià, trẻ, gái, trai, tùy theo từng công việc, ai nấy đều làm cói, ngươìthì cắt cói, chẻ cói, phơi cói, nhuộmmàu cho cói, người thì ngồi dệt cói, đan các mặt hàng thủ công mỹ nghệ bằngcói. Sợi cói dài dùng để dệt chiếu, sợi cói ngắn nhuộm nhiều màu sặc sỡ để đanlàn, khâu thảm hoặc làm các mặt hàng mỹ nghệ. Điều đáng phấn khởi là ở Kim Sơncó nghề làm cói nên không có lao động dư thừa và cũng vì vậy, ít có những vụviệc tiêu cực. Hàng năm nhiều gia đình thu nhập thêm bằng nghề cói có từ 10 đến20 triệu đồng.

Những cây cóidài, đẹp dùng để dệt chiếu, còn những cây cói ngắn, người dân Kim Sơn nhuộm cácmàu: xanh, đỏ, tím, vàng làm nhiều sản phẩm khác như: thảm, làn, khay, hộp, đĩacốc, tách, túi xách, mũ … Để làm được những sản phẩm này, phải có những ngươìsáng tạo ra mẫu. Còn người đan phải kéo kéo. Họ đều là họa sỹ, nghệ nhân tàinăng. Đôi bàn tay vàng, tài hoa của họ như thổi hồn vào sản phẩm cói. Hầu nhưcác cây cói dài hay ngắn, người dân đều tận dụng để làm cho các sản phẩm trên.Đặc biệt các loại làn cói được người dân sử dụng nhiều để đựng các thực phẩmkhi đi chợ hoặc các đồ vật khác. Người nước ngoài rất thích các túi xách, mũ,hộp làm bằng cói. Các sản phẩm này vừa đẹp, nhẹ, lại thân thiện với môi trường.

Nét đặc thù củangười dân Kim Sơn là ở các làng nghề đều mang tính chuyên nghiệp. Nhiều xãtrong huyện chuyên dệt chiếu như: Văn Hải, Trì Chính, Lưu Phương, Chính Tâm,Thượng Kiệm, thị trấn Phát Diệm. Nhưngmột số làng khác lại chuyên đan làn và các mẫu nhỏ để xuất khẩu. Làng Thủ Trungchuyên đan các sản phẩm mỹ nghệ như: hộp kiểu, hộp chùa Một Cột, giày, dép mâũnhỏ. Các sản phẩm mỹ nghệ bằng cói này đã được xuất khẩu sang nhiều nước trênthế giới.

Cây cói Kim Sơnmềm mại, óng ả như sợi nối giữa biển và bờ, giữa quá khứ và hiện tại, giữa ViệtNam và thế giới để vươn tới tương lai. Cao hơn nữa, nó là sợi nối giữa Văn hóa– Kinh tế - Du lịch. Rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến thăm Nhà thờ đáPhát Diệm - Một công trình kiến trúc độc đáo của dân tộc, khi trở về đều muamột số mặt hàng cói Kim Sơn về dùng hoặc đem trưng bày trong phòng khách, tựhào là mình đã đến Kim Sơn.

Phải chăng, cáitên “Kim Sơn” có nghĩa là “Núi Vàng”, vì cây cói và cây lúa ở đây đã lên ngôitrên vùng đất mới, đất mở màu mỡ, có người dân cần cù lao động sáng tạo. Đó làsự đánh giá, khẳng định và cũng là ước mơ của người xưa, của nhà thơ kiêm nhàkinh tế nông nghiệp Nguyễn Công Trứ về một vùng đất bồi ven biển của tỉnh NinhBình - nơi xứ sở của tiếng chuông nhà thờ ngân vang - một vùng công giáo có tơíhơn 140 nhà thờ lớn nhỏ, có nhà thờ đá Phát Diệm nổi tiếng đã và trồng cói, câylúa để xây dựng quê hương đất nước giàu đẹp.

Lã Đăng Bật

Nguồn Ninh Bình: http://baoninhbinh.org.vn/chieu-coi-o-nui-vang-2019080208134584p2c20.htm