Chiến công bắn rơi F-111A tại bãi sông Hồng

Trung đội tự vệ Nhà máy cơ khí Mai Động (Hà Nội) - đơn vị có mặt trong Liên đội tự vệ Hoàn Kiếm - Hai Bà Trưng góp công bắn rơi chiếc máy bay 'cánh cụp cánh xòe' F-111A trong đêm 22/12/1972. Đã qua 51 năm, những chiến sĩ tự vệ của Hà Nội năm xưa vẫn có dịp ôn lại chiến công hào hùng đó vào mỗi dịp Tết đến, xuân về.

Tôi biết chú Nguyễn Văn Trung từ ngày ông còn là cán bộ thuộc phòng hành chính của Nhà máy cơ khí Mai Động. Nhắc lại trận đánh máy bay Mỹ tại bãi giữa sông Hồng, chú còn có thể tả rất chi tiết ví như đó là đêm mưa phùn, có trăng non, nền trời sáng, từ trận địa Vân Đồn ở bãi sông Hồng có thể thấy bóng cầu Long Biên in trên nền trời…

Cựu chiến binh Hoàng Minh Giám (trái) và ông Nguyễn Văn Trung (ảnh chụp năm 2013)

Cựu chiến binh Hoàng Minh Giám (trái) và ông Nguyễn Văn Trung (ảnh chụp năm 2013)

Trận địa này nguyên gốc là trận địa của pháo 37 ly, tuy nhiên trước đó đã bị đánh phá vẫn còn lửa cháy, vật dụng đổ nát ngổn ngang. Bộ Tư lệnh quân khu Thủ đô điều động 3 trung đội súng phòng không 14ly5 của 3 trung đội tự vệ (gồm Nhà máy gỗ Hà Nội, Nhà máy cơ khí Mai Động và Nhà máy cơ khí Lương Yên) chiếm lĩnh trận địa cũ của đơn vị pháo 37 ly đón lõng đường thoát của địch. Chú Trung kể: “19 giờ vào chiếm lĩnh trận địa, 21 giờ vào cấp 1 sẵn sàng chiến đấu, hầm hào công sự của khẩu đội pháo 37 để lại, rộng thênh thang, triển khai khẩu 14ly5 nằm lọt thỏm trong lòng, rất… sướng”.

Trận đánh diễn ra vào hồi 21h30 từng dẫn đến sự nghi hoặc cho nhiều người tiếp nhận thông tin sau này. Trong đó, việc dùng mắt thường quan sát, mục tiêu có tốc độ lớn làm sao có thể “bắn đón” được? Nên biết rằng máy bay F-111A vào năm 1972 là vũ khí tối tân của Mỹ, tốc độ cực đại lên đến 2,5 lần tốc độ âm thanh, khoảng cách từ trận địa Vân Đồn đến “vật chuẩn” cầu Long Biên khoảng 800m, nghĩa là từ khi trông thấy đến khi máy bay bay qua trận địa ước chừng 2 giây. Làm sao có thể bắn ngay khi chiếc máy bay vừa nhô đầu lên khỏi đỉnh cầu? Đây chính là những câu hỏi tôi đặt ra khi nghe lại sự kiện này.

Thực tế còn có một nhân vật nữa, người có vai trò quan trọng trong trận thắng này, đó là Đại đội trưởng Hoàng Minh Giám, chỉ huy liên đội. Năm 2013, tôi cùng chú Trung đã đi tìm gặp vị đại đội trưởng cũ tại một huyện ngoại thành Hà Nội. Vào năm 1972, ông Giám đeo quân hàm Trung úy đã có kinh nghiệm chiến đấu, bắn máy bay Mỹ tại chiến trường Khu 4. Qua câu chuyện, chúng tôi được biết ngay sau khi nhận nhiệm vụ, ông Giám đã xác định được vật chuẩn, thời gian và quy luật tiến công của địch.

Ngoài ra ông Giám có được thông tin từ trạm rada lúc đó đóng tại Vườn hoa Yéc-xanh. Trạm này thông tin cho liên đội khi máy bay địch xâm nhập khu vực núi Tam Đảo. Ông Giám tính toán thời gian và vạch ra phương án tác chiến. Ông tự tay điều chỉnh tầm hướng cho 5 khẩu 14ly5 hướng về phía nóc cầu Long Biên. Thống nhất với các trung đội hiệu lệnh nổ súng là tiếng kẻng.

21h30 đêm 22/12/1972 giữa những ngày cao điểm của chiến dịch Liner Becker 2, trời đổ mưa phùn, hơi xuân đã về, có lẽ trời rất lạnh nhưng trong lòng những chiến sĩ tự vệ phòng không trên khắp mặt trận Hà Nội đều nung nấu một ngọn lửa căm thù sẵn sàng trút xuống đầu giặc Mỹ. Thời điểm đó, ngay trên nóc của tòa nhà Ngân hàng Nhà nước có một tổ súng máy phòng không 12ly7. Lúc đó, tòa nhà này chính là điểm cao nhất của Hà Nội. Từ tổ 12ly7 đã thấy lưới lửa vụt lên rồi ánh lửa tóe trên thân máy bay, chiếc máy bay loạng choạng lao đi mang theo đuôi lửa. “Cháy rồi”, tất cả reo hò ôm chầm lấy nhau mặc cho tiếng bom, đạn khắp nơi vẫn ầm ầm vọng lại.

Từ một vị trí khác, anh tự vệ Nguyễn Văn Trung của Nhà máy cơ khí Mai Động rất nóng lòng, sốt ruột. Đã nhiều lần anh thấy máy bay địch thoát dọc theo sông Hồng. Máy bay to như chiếc ghế đẩu vút qua đầu. Trong tích tắc anh cảm giác như thấy rõ cả khuôn mặt hai tên giặc lái ngồi song song trong khoang lái bắt ánh đèn hắt lên từ bảng điều khiển. Bắn đi! Sao chưa bắn? Sao để chúng ngang nhiên bỏ đi như thế? Chưa bao giờ anh thèm nghe tiếng kẻng hiệu lệnh đến thế.

Một lượt, hai lượt, nhiều lượt địch đã lọt qua. Trận địa vẫn im lìm. Ánh lửa từ trận tập kích hồi chiều vẫn lem lém cháy. 5 khẩu 14ly5 như 5 con trâu cong mình chờ cơ hội lao vào đối thủ. Rồi bất chợt cả trận địa rung chuyển, “trâu sắt” khạc lửa, chiếc máy bay như con cá trê lao sầm vào lưới lửa. Nó lúc lắc bay về hạ lưu sông Hồng kéo theo tia lửa ào ạt như máu chảy. Đến sau này trong đại hội báo công, các chiến sĩ tự vệ mới được biết đó là chiếc máy bay thứ 13. Đại đội trưởng Hoàng Minh Giám đã căn chính xác thời cơ tiêu diệt địch. 5 khẩu 14ly5 cùng nhả đạn tạo thành một lưới thép chụp xuống đầu địch.

Các cựu chiến binh của Trung đội tự vệ cơ khí Mai Động gặp gỡ đầu xuân tại nhà ông Nguyễn Văn Trung (thứ 4, bên phải sang), bà Phạm Thị Viễn (thứ 2, bên phải sang)

Các cựu chiến binh của Trung đội tự vệ cơ khí Mai Động gặp gỡ đầu xuân tại nhà ông Nguyễn Văn Trung (thứ 4, bên phải sang), bà Phạm Thị Viễn (thứ 2, bên phải sang)

Chiến công này ngay sau đó đã được báo cáo lên Trung ương, cùng với nhiều bài báo viết về những chiến sĩ tự vệ. Trong đó nổi lên tấm gương của đồng chí Phạm Thị Viễn, đầu quấn khăn tang vẫn ngồi trên bệ pháo bắn máy bay Mỹ. Sau này hình ảnh đó đã được nhiều nhà văn, nhà báo khai thác, tạo nên sức rung cảm lớn. Còn số phận của chiếc máy bay F-111A, nó bay đến tỉnh Hòa Bình mới chịu rơi, đường bay của nó như thế nào người ta không hình dung nổi, song phi công cũng kịp nhảy dù và bị du kích bắt sống 3 ngày sau đó. Xác chiếc F-111A này đến giờ vẫn được trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, trong đống xác máy bay chất đống sau cột cờ Hà Nội.

Mới đây, tại một cuộc triển lãm ảnh bên hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội, Ban Tổ chức trưng bày tấm hình của cô Phạm Thị Viễn thời trẻ, đang ôm khẩu súng K44. Tấm hình được chú thích là: “Nữ chiến sĩ Phạm Thị Viễn, liên đội tự vệ Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng bắn rơi máy bay F-111A của Mỹ đêm 22/12/1972”. Có bạn trẻ tò mò, chụp lại, đưa lên mạng hỏi, lập tức tạo ra một cuộc tranh luận nhỏ. Nhiều “cư dân dân mạng” thắc mắc bằng những câu hỏi hết sức ngộ: “Làm sao biết được cô này bắn chiếc máy bay đấy?”. “Trên viên đạn có chữ ký của cô ấy đâu?”. Hay, “súng K44 làm sao bắn rơi được máy bay phản lực?”. Rồi lại có “cư dân mạng” khác vào trả lời kiểu rất “xỏ lá”: Người ta lấy ná nỏ bắn rơi máy bay; Máy bay còn phục kích trong mây… tại sao không bắn được. Đọc những bình luận này dễ thấy một sự cợt nhả không hề nhẹ. Có người do vô tình, có kẻ cố tình lợi dụng để bôi nhọ lịch sử.

Tiện đây cũng xin nói rõ, việc xác định chiếc máy bay F-111A bị liên đội tự vệ Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng bắn hạ đã được Quân chủng Phòng không Không quân xác định ngay sau sự kiện diễn ra. Thực ra việc xác định đơn vị nào bắn rơi cũng không khó, đó là căn cứ theo đường bay của địch, các chốt chặn của ta, thời điểm nổ súng, độ cao của máy bay lúc bị bắn cháy; thêm nữa nay trên thân máy bay cũng tìm được vết đạn…

Về việc cô Phạm Thị Viễn lại đại diện cho cả liên đội nhận vinh dự, điều này cũng hoàn toàn dễ hiểu. Mặc dù chỉ là người tham gia trong Liên đội nhưng cô đã vượt qua đau thương riêng của gia đình để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nên được tập thể tuyên dương là hoàn toàn xứng đáng. Bên cạnh đó, việc cô Viễn có người thân bị bom Mỹ giết hại đã bắn rơi máy bay Mỹ để trả thù là một câu chuyện có sức lay động, thuyết phục và tố cáo tội ác của giặc. Cuối cùng, “đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể” là một truyền thống tốt đẹp của quân đội ta, trong nhiều chiến công vẫn cần có những điển hình để chiến công được nhiều người biết tới.

Đông Lê

Nguồn ANTG: https://antg.cand.com.vn/tu-lieu-antg/chien-cong-ban-roi-f-111a-tai-bai-song-hong-i720299/