CẦN QUAN TÂM ĐẾN HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU CÔNG NGHỆ TUYỂN VÀ CHẾ BIẾN ĐẤT HIẾM TẠI VIỆT NAM

Thảo luận các giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tài chính, ngân sách năm 2024 gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng, cần ưu tiên quan tâm tháo gỡ vướng mắc cho khoa học công nghệ, trong đó có hoạt động nghiên cứu chế biến đất hiếm tại Việt Nam.

Việt Nam đứng thứ 2 trên thế giới về trữ lượng đất hiếm

Đất hiếm là một loại khoáng sản đặc biệt, ứng dụng trong nhiều lĩnh vực công nghệ kỹ thuật cao; đồng thời là một trong những nguyên liệu chiến lược để sản xuất chất bán dẫn... Ước tính trữ lượng đất hiếm của thế giới là 120 triệu tấn. Theo ước tính của Cục Khảo sát địa chất Mỹ, trữ lượng và tài nguyên đất hiếm ở Việt Nam đạt khoảng 22 triệu tấn, đứng thứ 2 thế giới, chỉ sau Trung Quốc. 5 quốc gia có trữ lượng đất hiếm lớn nhất thế giới gồm có: Trung Quốc (44 triệu tấn), Việt Nam (22 triệu tấn), Brazil (21 triệu tấn), Nga (21 triệu tấn), Ấn Độ (6,9 triệu tấn)…

Mỏ khai thác đất hiếm tại Việt Nam ( Ảnh minh họa)

Mỏ khai thác đất hiếm tại Việt Nam ( Ảnh minh họa)

Theo thông tin của Cơ quan Khảo sát Địa chất Mỹ, đất hiếm gồm 17 loại vật chất có từ tính và tính điện hóa đặc biệt. Là một loại khoáng sản đặc biệt, nguyên tố đất hiếm có vai trò rất quan trọng và là vật liệu chiến lược đối với sự phát triển của các ngành kỹ thuật mũi nhọn, công nghệ cao như điện, điện tử, quang học, laser, vật liệu siêu dẫn, chất phát quang.

Bên cạnh đó, đất hiếm được dùng để sản xuất các chất xúc tác, nam châm, hợp kim, bột mài, gốm, chất phát quang. Việc chế tạo các máy điện thoại di động, ổ đĩa cứng máy tính... không thể không dùng đất hiếm. Đất hiếm là chất không thể thiếu trong xe ô tô điện, pin lưu trữ, tấm pin mặt trời và tua bin gió…

Các nhà khoa học gọi đất hiếm là những nguyên tố của tương lai. Nhiều nước coi đất hiếm là vàng của thế kỷ XXI, thậm chí của cả thế kỷ XXII. Theo một số nghiên cứu, thị trường đất hiếm thế giới có trị giá khoảng 8,1 tỷ USD và sẽ tăng lên đến 14,4 tỷ USD vào năm 2025.

Đất hiếm là nguyên liệu quan trọng sản xuất chất bán dẫn cho các ngành công nghiệp cao. Với trữ lượng tài nguyên này, Việt Nam có những cơ hội, lợi thế để khai thác, hợp tác, phát triển công nghiệp bán dẫn, tham gia chuỗi cung ứng.

Có trữ lượng đất hiếm đạt khoảng 22.000.000 tấn, đứng thứ hai trên thế giới, song đến nay Việt Nam vẫn chưa khai thác và chế biến được mỏ đất hiếm nào. Một trong những nguyên nhân chính là do chưa có công nghệ khai thác, chế biến đất hiếm, trong khi các nước giữ độc quyền, không chuyển giao công nghệ. Theo báo cáo của Cục Công nghiệp, Bộ Công thương, tình hình khai thác, chế biến các mỏ đất hiếm của Việt Nam còn rất hạn chế, nguyên nhân chính của việc chậm trễ này là do các doanh nghiệp được cấp phép khai thác mỏ chưa làm chủ được công nghệ chế biến ra sản phẩm đạt yêu cầu cũng như chưa có công nghệ tách chiết ra các sản phẩm đất hiếm riêng rẽ.

Đại biểu Vương Quốc Thắng, đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam

Đại biểu Vương Quốc Thắng, đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam

Cần quan tâm đặt biệt đến hoạt động nghiên cứu công nghệ tuyển và chế biến đất hiếm

Phát biểu tại phiên thảo luận tổ, đại biểu Vương Quốc Thắng, đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam đã đề nghị Chính phủ cần quan tâm đặt biệt đến hoạt động nghiên cứu công nghệ tuyển và chế biến đất hiếm. Để phát triển cái ngành sản xuất chip bán dẫn trong giai đoạn 2025 và 2030 trong giai đoạn 2025 và 2030 như Chính phủ có báo cáo thì cần tập trung vào đào tạo 50.000 đến 100.000 nhân lực chất lượng cao. Đại biểu Vương Quốc Thắng nêu quan điểm, Việt Nam là quốc gia có trữ lượng đất hiếm đứng thứ 2 thế giới với khoảng 22 triệu tấn. Vì vậy, Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ, ngành xây dựng chiến lược phát triển và ứng dụng công nghệ đất hiếm với các nhiệm vụ cụ thể cho giai đoạn 2025-2030 và tầm nhìn đến 2045. Cân nhắc xây dựng Trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ đất hiếm, thúc đẩy đào tạo và thu hút các nhà khoa học chuyên sâu trong lĩnh vực đất hiếm, cũng như là tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đất hiếm.

Hội thảo Khoa học: " Đất hiếm Việt Nam - Thực trạng công nghệ khai thác, chế biến và triển vọng" tổ chức 18/10/2023

Hội thảo Khoa học: " Đất hiếm Việt Nam - Thực trạng công nghệ khai thác, chế biến và triển vọng" tổ chức 18/10/2023

Về thực trạng nghiên cứu công nghệ về đất hiếm tại Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Anh Sơn, Phó Viện trưởng Viện Khoa học vật liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cho biết, đã có quá trình nghiên cứu từ năm 1975 đến nay, nghiên cứu ở cả lĩnh vực chế biến, làm sạch và ứng dụng, được Nhà nước đầu tư qua các chương trình khoa học-công nghệ và từ các chương trình của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Dù kết quả nghiên cứu khả quan, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Công nghệ tuyển quặng chưa hiệu quả, chất lượng tuyển chưa cao, hàm lượng các tạp chất có hại đi cùng còn đáng kể, chưa giải quyết được bài toán “tính khó tuyển” của đất hiếm Lai Châu một cách tối ưu nhất. Đối với công nghệ tách tổng ô-xít đất hiếm thì chưa có nhà máy chế biến từ tinh quặng ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, với hàm lượng ô-xít đất hiếm tối thiểu từ 95%. Công nghệ phân chia và làm sạch đã có nghiên cứu từ rất sớm, nhưng phần lớn mới triển khai trong phòng thí nghiệm, chưa có công nghệ nào áp dụng vào thực tế.

Chế tạo kim loại đất hiếm là công nghệ mang lại giá trị cao nhất trong chế biến đất hiếm nhưng công nghệ này chưa bắt đầu ở nước ta. Chế tạo kim loại đất hiếm đòi hỏi trình độ công nghệ rất cao, làm ra các sản phẩm cho ngành xe điện, điện gió, công nghiệp quốc phòng… Theo đánh giá của các nhà khoa học, sở dĩ công nghệ ngành đất hiếm chưa phát triển như mong muốn là do đầu tư cho khoa học-công nghệ lĩnh vực này chưa đủ tầm, thiếu tập trung và lĩnh vực ứng dụng đất hiếm chưa tìm được vị trí xứng đáng trong nền kinh tế thị trường.

Phó Giáo sư, Tiến sỹ Hoàng Anh Sơn đề xuất các hướng nghiên cứu trọng tâm, trong đó đặc biệt chú trọng đến chế biến đất hiếm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu; phân chia, làm sạch các ô-xít đất hiếm riêng rẽ phục vụ nghiên cứu và sản xuất. Khi Việt Nam đang dần trở thành khu vực thu hút đầu tư cho ngành xe điện, năng lượng mới, cần phát triển nội lực công nghệ chế tạo kim loại đất hiếm, đưa kim loại đất hiếm thành nguyên liệu chiến lược để nắm quyền chủ động trong hợp tác với các quốc gia có nền công nghiệp công nghệ cao.

Do đó, cần nghiên cứu công nghệ chế biến sâu đến kim loại một số nguyên tố đất hiếm (Nd, Dy, Pr…) phục vụ chiến lược chuyển đổi năng lượng, giao thông không phát thải. Để thực hiện được các mục tiêu đó, cần phát huy hết năng lực của các viện nghiên cứu, các tổ chức nghiên cứu nhằm đưa ra công nghệ khai thác, chế biến hiệu quả về kinh tế-kỹ thuật, tháo gỡ bài toán cho các doanh nghiệp khai thác và chế biến đất hiếm đã được cấp phép nhưng chưa khai thác được.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Bá Thuận, Viện Công nghệ xạ hiếm kiến nghị, trong nghiên cứu chế biến quặng đất hiếm, cần xây dựng một trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ chế biến quặng đất hiếm nhằm hoàn thiện các công nghệ quy mô sản xuất nhỏ và giải quyết các phát sinh trong quá trình sản xuất cũng như cập nhật công nghệ mới. Trung tâm sẽ là nơi liên kết với doanh nghiệp, trình diễn và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp.

Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết, trên cơ sở những kiến nghị của các nhà khoa học, Bộ sẽ có đề xuất với Chính phủ một số giải pháp khoa học-công nghệ phục vụ khai thác, chế biến đất hiếm Việt Nam một cách hợp lý, hiệu quả, phù hợp với định hướng phát triển đất hiếm của Đảng và Nhà nước.

Hải Yến

Nguồn Quốc Hội: https://quochoi.vn//tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?itemid=81345