Bài 2: Đảng phải dựa vào dân

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.

Đảng dựa vào dân, gắn bó với dân thì người dân càng thêm tin yêu Đảng. Trong ảnh: Áp phích chào mừng Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Ảnh: Anh Tuấn

Điều đó cần được phát huy trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.

Hậu quả của “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ

Nhiều năm qua, công tác xây dựng Đảng, bên cạnh những thành tựu to lớn, vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ. Nhận diện những biểu hiện của suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” là cần thiết, nhưng vấn đề là phải chỉ ra trúng nguyên nhân, chiều sâu bản chất của vấn đề để chữa tận gốc, chữa một cách cơ bản.

Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ rõ nguyên nhân toàn diện hơn. Phân tích sâu hơn phải thấy nguyên nhân sâu xa bản chất, đó là cán bộ, đảng viên “chưa theo đúng đường lối nhân dân” như Bác Hồ đã dạy. Việc xử lý nhiều cán bộ hư hỏng chưa nghiêm. Trong khi thiếu vắng những tấm gương, tự giác, gương mẫu của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp thì lại xuất hiện những cán bộ cao cấp suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Một bộ phận cán bộ, đảng viên nói không đi đôi với làm.

“Tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” là mảnh đất màu mỡ, tiếp tay cho “diễn biến hòa bình”. Không một thế lực thù địch nào có thể bôi nhọ được ta, xóa bỏ được vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ ta, ngoại trừ chúng ta tự bôi nhọ, tự đánh đổ bằng chính sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Kẻ thù bên ngoài không đáng sợ. Kẻ thù bên trong đáng sợ hơn, vì nó không mang gươm mang súng nhưng lại phá ta từ trong phá ra, là bạn đồng minh của kẻ thù bên ngoài. Muốn diệt kẻ thù bên ngoài trước hết phải diệt thù trong để củng cố, giữ vững được lòng tin của nhân dân vào Đảng.

Tin dân, dựa vào dân để kiểm soát quyền lực

Về nhiệm vụ, giải pháp, Nghị quyết TƯ 4 (khóa XII) tập trung vào 4 nhóm. Trong số này, giải pháp phát huy vai trò của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Phải dựa vào dân, phát huy quyền hành của dân để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nếu sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thì chống tham nhũng cũng phải là sự nghiệp của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử thì cũng chính nhân dân sẽ làm nên thắng lợi trong cuộc chiến chống tham nhũng. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Chúng ta phải phát động tư tưởng của quần chúng, làm cho quần chúng khinh ghét tội tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng ức, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp”.

Đảng phải tin dân, dựa vào dân để kiểm soát quyền lực. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân, tin vào dân, dựa vào dân, nếu không có nhân dân giúp sức thì Đảng không làm được việc gì hết. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại. Đảng cầm quyền nhưng dân là chủ, là gốc. Vì vậy, “muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được”. Điều chủ chốt trong tư tưởng Nhà nước của dân là bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hành chữ liêm”. Dân ủy thác quyền lực cho cán bộ và dân phải có quyền kiểm soát quyền lực đó. Nhà nước của dân thì dân phải được biết mọi điều một cách công khai, minh bạch (trừ bí mật quốc gia).

Dựa vào dân để làm công tác cán bộ và tổ chức. Xưa nay, nhiều việc ta làm theo kiểu “tự mình”, có tính chất nội bộ, “đóng cửa bảo nhau, rút kinh nghiệm”. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến “tự chuyển hóa”, “tự chuyển biến”. Giải pháp tự phê bình và phê bình trong Đảng là cần thiết, nhưng cần hơn là tự phê bình trước dân chúng, có khuyết điểm thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng. Phải tin vào dân chúng, đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Hồ Chí Minh dạy rằng “nếu dân chúng nói mười điều mà chỉ có một vài điều xây dựng, như thế vẫn là quý báu và bổ ích”. Theo Người, “nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”.

Để đẩy lùi được suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cần phải làm theo cách Lênin và Hồ Chí Minh dạy: Nhổ cỏ tận gốc, nhổ đi nhổ lại cho sạch hết cỏ rác quan liêu, tham nhũng. Bắt một người tham nhũng, biến chất là cần thiết, nhưng có nghĩa lý gì, vì còn hàng nghìn hàng vạn tên giặc như nó. Vấn đề là phải tìm ra cái gốc sinh ra con người đó. Cái gốc đó có thể là cả một đường dây, một hệ thống, nhưng phải tìm được cái gốc, rễ cái. Một cá nhân không thể tự luân chuyển, tự lên chức, làm thất thoát hàng chục nghìn tỷ đồng. Phải truy đến cùng cá nhân nào, bộ phận nào, thế lực nào “chống lưng”, làm điểm tựa cho những con người hư hỏng đó. Không thể để tình trạng đổ lỗi cho nhau, không ai chịu trách nhiệm. Đưa ra xét xử các vụ án tham nhũng lớn là cần, nhưng đó vẫn chỉ là ngọn. Cần hơn là đào được gốc. Khi đã tìm ra cái gốc rồi thì phải xử lý nghiêm. Hồ Chí Minh viết: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”.

Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là do chủ nghĩa cá nhân, tức là giặc nội xâm, loại giặc này nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Vì vậy, phải có những biện pháp mạnh với loại giặc này, không thể vuốt ve, vỗ về. Thực tế cho thấy rằng sự tha hóa không thể chấm dứt chỉ bằng tu dưỡng ý thức đạo đức; bằng giáo dục chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình; nó bị đánh bại bởi cơ chế, tính khoa học của bộ máy, tính nghiêm minh của pháp luật, sức mạnh của quần chúng, cơ bản nhất bởi nền dân chủ - dân chủ trong Đảng, trong xã hội, làm cho dân dám nói, dám phê bình Đảng, Chính phủ và cán bộ, đảng viên. Nhưng phần tác động lại của tu dưỡng ý thức không phải thứ yếu. Cơ chế, bộ máy tốt mà con người hư hỏng, cố tình xuyên tạc nó thì không cơ chế, bộ máy nào phát huy nổi hiệu lực, thậm chí thành công cụ của cái xấu, cái ác.

Các giải pháp trên phải được tiến hành đồng bộ, hỗ trợ và bổ sung nhau. Nhưng giải pháp quan trọng nhất, cái gốc của mọi giải pháp theo tư tưởng Hồ Chí Minh là động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân. Trên cơ sở nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý, từ lời nói đến việc làm, từ “đức trị” đến “pháp trị”, từ cơ chế chính sách đến công tác cán bộ, từ nguyên tắc sinh hoạt Đảng đến việc nêu gương... phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu - dân tâm phục, khẩu phục, để củng cố, giữ vững lòng tin của nhân dân vào Đảng.

PGS.TS Bùi Đình Phong

Nguồn Hà Nội Mới: http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Chinh-tri/855022/bai-2-dang-phai-dua-vao-dan