Việt Nam sau ba năm gia nhập WTO

(CATP) Ngày 11-1-2007, Việt Nam trở thành thành viên 150 của tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Ba năm qua, trên con đường hội nhập quốc tế, nước ta đã tham gia đầy đủ các định chế kinh tế toàn cầu, mở rộng thị trường hàng hóa dịch vụ, đầu tư quốc tế, đổi mới mạnh mẽ hơn và đồng bộ hơn các thể chế, đồng thời, cải tiến nền hành chính quốc gia theo hướng hiện đại. Năm 2010 sẽ là năm đánh dấu nhiều sự kiện trọng đại của đất nước, nền kinh tế nước ta sẽ có nhiều chuyển biến. Chúng ta gia nhập WTO đúng thời điểm kinh tế thế giới diễn biến xấu đến hai lần. Lần thứ nhất là năm 2007 giá cả thị trường thế giới tăng cao, đặc biệt là giá dầu; lần thứ hai là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua. Năm 2008 là năm khá đặc biệt, trong nửa đầu năm, nền kinh tế nước ta phải đối phó với tình trạng lạm phát cao.

Năm 2009, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu tiếp tục tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế - xã hội của nước ta. Nhất là trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tốc độ tăng trưởng kinh tế, sản xuất và kinh doanh, xuất khẩu và đầu tư từ quý 1 đến quý 3 giảm sút nghiêm trọng, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ còn khoảng 165 tỷ đô-la Mỹ bằng gần 1/3 so với năm 2008. Những khoản tín dụng đầu tư trong nước không còn dồi dào như các năm trước; nhiều hợp đồng cho vay trở nên chặt chẽ hơn, khiến nhiều nhà đầu tư gặp khó khăn trong việc thu xếp tín dụng cho các dự án mới. Nếu chưa gia nhập WTO thì chắc chắn Việt Nam sẽ gặp khó hơn nhiều vì hàng hóa của chúng ta phải chịu thuế rất cao. Theo đánh giá của nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan thì 3 năm hội nhập nền kinh tế thế giới, chúng ta thấy những tác động hữu hình và vô hình rõ hơn. Về hữu hình, xuất khẩu đã gia tăng đáng kể, tuy nhiên đến năm 2009 lại bị âm 9% do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới. Nhưng nếu chúng ta không tham gia hội nhập, xuất khẩu sẽ còn bị giảm nhiều hơn. Về mặt vô hình, xã hội đã nhận thức được nhu cầu hội nhập và đồng thuận cao. Đặc biệt để hội nhập vào nền kinh tế thế giới đã tạo ra sức ép buộc các cơ quan trung ương và địa phương phải giảm khoảng 30% các thủ tục hành chính. Nhấn mạnh ý nghĩa của sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan đánh giá: “Nếu không hội nhập thì chúng ta sẽ chịu những rào cản lớn hơn, những chế xuất cao hơn rất nhiều, không phải dừng ở 0,9%. Nổi bật nhất là thể chế của chúng ta đã đổi mới đáng kể, trước và sau khi ra nhập WTO, đặc biệt nghị định 30 của chính phủ về vấn đề giảm bớt 30% thủ tục, cũng là biểu hiện mới từ sức ép của quá trình hội nhập, sức ép của quá trình khủng hoảng đưa tới những cải cách đó. Chúng ta đã dần nhận biết rõ hơn cái đỏng đảnh của thể chế thị trường và nền kinh tế thế giới và từ đó tìm cách ứng phó cơ động linh hoạt. Kết quả là chúng ta ứng phó tương đối thành công, qua đó nó bộc lộ rõ những cơ hội, thách thức của quá trình hội nhập đồng thơìbộc lộ rất rõ điểm mạnh điểm yếu của nền kinh tế Việt Nam”. Ba năm chưa phải là một khoảng thời gian dài để Việt Nam hoàn toàn hội nhập được với nền kinh tế thế giới, trước mắt còn nhiều thách thức lớn đặt ra. Vì vậy cần phải nhận biết tốt hơn các thị trường tự do, thể chế thị trường, nếu không sẽ khó ứng xử. Các cơ quan nhà nước cũng cần nghiên cứu nhiều hơn về thị trường thế giới để có các chính sách cơ động, linh hoạt nhưng phải dễ tiên đoán. Trong năm 2010, Việt Nam cũng phải chọn lựa giữa chất lượng và tốc độ tăng trưởng; đối mặt với mâu thuẫn muốn ổn định vĩ mô phải thắt chặt tiền tệ; Cân bằng giữa thị trường ngoài nước và trong nước, giữa can thiệp của Nhà nước và điều tiết thị trường; Đặc biệt là chọn lựa mô hình phát triển phù hợp để Việt Nam có thể trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.

Nguồn CA TP.HCM: http://www.congan.com.vn/?catid=681&id=46596&mod=detnews&p=