Vì sao hàng tỉ USD vốn ngoại vẫn lẩn tránh startup Việt Nam?

Thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, giấy phép con, khó thoái vốn sau một thời gian đầu tư đang là những rào cản khiến nhà đầu tư ngoại ngại đầu tư cho các startup Việt Nam.

Tổng giá trị đầu tư vào các startup ở Việt Nam chỉ là dưới 100 triệu USD

Nhà đầu tư sợ giấy phép con

Tại buổi TALKUP “Toàn cảnh gọi vốn Đông Nam Á và câu chuyện Việt Nam” tổ chức tối 5.9, câu chuyện khó huy động vốn từ các quỹ đầu tư là một trong những vấn đề nan giải được các startup Việt đưa ra.

Theo thống kê, năm 2016, tổng giá trị đầu tư vào các startup tại khu vực Đông Nam Á là khoảng 1,5 tỷ USD. Song ở Việt Nam, con số này chỉ là dưới 100 triệu USD, 80% số tiền còn lại đổ vào Indonesia và Singapore.

Lý giải vấn đề trên, ông Nguyễn Mạnh Dũng – GĐĐH tại Việt Nam và Thái Lan của CyberAgent khu vực Đông Nam Á cho biết, ở Việt Nam, đã có những công ty gọi vốn được hàng chục triệu USD, nhưng hàng trăm triệu USD thì chưa có. Các công ty này chủ yếu tập trung ở Indonesia.

Theo quy luật, nguồn vốn startup sẽ chảy từ thị trường lớn sang thị trường nhỏ. Từ Mỹ, sang Nhật, tới Trung Quốc, Ấn Độ rồi mới tới Đông Nam Á. Ở Đông Nam Á, Indonesia là thị trường lớn nhất, GDP của họ gấp 4,5 lần Việt Nam, tiếp theo tới Thái Lan, quốc gia có GDP gấp 2 lần Việt Nam.

Ông Nguyễn Mạnh Dũng – GĐĐH tại Việt Nam và Thái Lan của CyberAgent khu vực Đông Nam Á cho rằng, thủ tục, giấy phép con đang cản trở nhà đầu tư nước ngoài

Ông Dũng phân tích: “Điểm khác biệt lớn nhất giữa thị trường startup ở Việt Nam và một số quốc gia khác như Indonesia, Malaysia, Thái Lan là chính sách hỗ trợ startup, gọi vốn tốt hơn Việt Nam.

Thị trường Việt Nam có những bất lợi là rủi ro lớn; nhiều thủ tục đầu tư, giấy phép con; thời gian giải ngân cho một thương vụ đầu tư mất rất nhiều thời gian. Chỉ những nhà đầu tư kiên nhẫn nhất mới có thể đầu tư vào thị trường Việt Nam bởi thời gian giải nhân 50.000 USD và 100 triệu USD là như nhau.

Ở Singapore, chỉ 1 tuần là giải quyết xong các thủ tục và giải ngân được vốn đầu tư. Ở Thái Lan là 1 tháng, nhưng ở Việt Nam, thông thường phải mất từ 8 tháng tới 1 năm.

Bởi để có một bộ hồ sơ được chấp thuận giải ngân vốn, nhà đầu tư phải cung cấp đầy đủ thông tin về nhà đầu tư gồm hộ chiếu của người đại diện pháp luật, giấy đăng kí kinh doanh, điều lệ công ty… Tất cả đều phải được dịch từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt, công chứng. Làm xong bộ hồ sơ trên mất 1 tuần, rồi lại mất thêm vài tháng nữa để xin chữ kí của tất cả các bên liên quan. Đó là với 1 nhà đầu tư, nếu có 3 nhà đầu tư ở 3 nước khác nhau, có lẽ phải chờ tới cả năm.

Ngoài ra, giấy phép con còn rất nhiều, vừa rồi Thủ tướng đề nghị xóa gần 2.000 giấy phép, nhưng vẫn còn mấy nghìn giấy phép con nữa. Ví dụ, trong lĩnh vực thương mại điện tử, nếu có nhà đầu tư nước ngoài tham gia, phải xin giấy phép, ý kiến của Bộ TT&TT, Bộ VHTTDL, Bộ Công Thương. Như trường hợp của Grab, Uber còn phải xin thêm ý kiến của Bộ GTVT. Thậm chí, nhiều startup đang làm phải dừng lại để xin thêm giấy phép.

Các startup công nghệ chỉ cần 6 tháng là đủ biết có tồn tại được hay không. Với những startup quy mô nhỏ, họ rất cần những khoản vốn nhỏ cỡ 50.000 USD để có thể nhanh chóng triển khai ý tưởng kinh doanh của mình. Nhưng một số tiền nhỏ như vậy cũng mất nhiều tháng giải ngân thì startup làm sao triển khai kinh doanh được?”

Theo ông Dũng, một lý do khiến startup Việt Nam khó huy động vốn là mức độ cọ sát của các startup Việt Nam rất ít. Tư duy của các startup Việt Nam khá đóng, họ không dám cung cấp thông tin và bị động trong việc tiếp xúc với nhà đầu tư vì lo lắng sẽ bị ăn cắp ý tưởng. Chính vì vậy, kinh nghiệm kêu gọi một số vốn nhỏ của các startup đã ít, làm sao có thể kêu gọi đầu tư một số vốn lớn.

Khó thoái vốn

Theo các chuyên gia, một vấn đề khiến nhà đầu tư ngoại ngại đầu tư ở Việt Nam bởi rất khó để thoái vốn sau một thời gian đầu tư.

“Nếu coi startup là một sản phẩm, sau khi đầu tư khoảng 3 năm, 5 năm hay 10 năm họ sẽ bán ra để kiếm lời. Nếu không bán được coi như thất bại. Song ở Việt Nam hiện nay không có lối thoát để nhà đầu tư thoái vốn, càng đầu lớn, nhà đầu tư càng gặp nhiều rủi ro. Vậy nên, thay vì đầu tư vào Việt Nam họ sẽ đầu tư vào Indonesia, Malaysia, Singapore vì khả năng thu hồi tiền và lãi cao hơn” – ông Nguyễn Mạnh Dũng nói.

Trong khi đó ông Đỗ Hoài Nam – Đồng sáng lập UP Co-working Space cho rằng, vấn đề với nhà đầu tư không chỉ là thoái vốn với bao nhiêu tiền, mà còn thoái vốn bằng cách nào.

Ông Đỗ Hoài Nam – Đồng sáng lập UP Co-working Space cho rằng không có nhiều sư lựa chọn thoái vốn cho các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam

Ông Nam chia sẻ: “Ở Việt Nam, không có nhiều sư lựa chọn thoái vốn cho các nhà đầu tư bởi hệ thống M&A ở Việt Nam chưa thực sự hoàn thiện.

Trong khi đó, lựa chọn IPO cũng cực kì khó khăn. Bản thân những doanh nghiệp lớn, lâu đời và có nhiều thành công như VPBank cũng vừa mới IPO. Hiện tại, ngay cả những công ty startup công nghệ thành công nhất của Việt Nam cũng chưa dám thực hiện IPO. Lựa chọn chủ yếu là bán lại cho nước ngoài hoặc các nhà đầu tư khác.

Ở đây lại phát sinh thêm vấn đề thuế không rõ ràng. Câu hỏi đặt ra là thuế nhà đầu tư phải đóng là thuế gì? Đó là thuế chuyển nhượng vốn (20%) hay thuế mua bánchứng khoán (0,1%)?

Câu hỏi này với nhà đầu tư cá nhân tương đối rõ ràng, nhưng với nhà đầu tư pháp nhân vẫn là một dấu hỏi, đặc biệt là với nhà đầu tư nước ngoài. Việc các nhà đầu tư dè dặt với startup Việt Nam nhiều khi không phải do chúng ta đánh thuế nhiều, mà môi trường của chúng ta không rõ ràng, nhà đầu tư không hiểu mình sẽ phải làm gì”.

Hoàng Nhật

Nguồn Dân Việt: http://danviet.vn/kinh-te/vi-sao-hang-ti-usd-von-ngoai-van-lan-tranh-startup-viet-nam-802365.html