Truyện Kiều và người phụ nữ Việt Nam

Đạm Tiên, Vương Thúy Kiều trong Kim Vân Kiều Truyện (nguyên bản của Truyện Kiều) của tác giả người Trung Hoa Thanh Tâm Tài Nhân đều là những cô gái Trung Hoa phong kiến 100%. Thật ra, Thanh Tâm Tài Nhân cũng không phải là người ghi chép sớm nhất về Vương Thúy Kiều.

Từ một câu chuyện lịch sử Trung Hoa

Bản ghi chép sớm nhất về Thuý Kiều là “Kỷ tiễu trừ Từ Hải bản mạt” của Mao Khôn đời Minh. Bản này chép: “Vương Thuý Kiều là kỹ nữ Lâm Tri, đầu tiên là Kiều Nhi, giỏi hát lối mới, thạo hồ cầm. Sau tìm cách trốn khỏi nhà xướng ca, đổi tên ở bên bờ biển. Nuỵ khấu đánh Giang Nam, bắt Thuý Kiều mang đi rồi trở thành áp trại phu nhân của Từ Hải.

Truyện Kiều với nhãn quan nhân văn sâu sắc về người phụ nữ Việt Nam

Từ Hải rất yêu quý nàng, mọi kế hoạch đều nghe theo nàng. Quan quân phái người đến chiêu hàng, Kiều đem nhiều việc đến khuyên, Từ Hải mới quyết tâm hàng. Quan quân bố trí kế hoạch, Từ Hải thua chết, Thuý Kiều cũng bị quan quân cướp. Sau khi bị Đốc phủ làm ô nhục, Kiều bị gả cho tù trưởng Vĩnh Thuận làm thiếp.

Trên đường qua sông Tiền Đường, Thuý Kiều than: Minh Sơn hậu đãi ta, ta vì việc nước dụ chàng mà bị hại. Giết một người chồng rồi lại lấy một người chồng, còn mặt mũi nào sống nữa! Bèn nhảy xuống sông mà chết”. Sự kiện này diễn ra vào năm Gia Tĩnh thứ 35, năm 1556, đời Minh Thế Tông. Các nhân vật như Vương Thúy Kiều, Từ Hải, Hồ Tôn Hiến đều có thật trong lịch sử!

Từ câu chuyện có thật của lịch sử như trên, Thanh Tâm Tài Nhân đã viết thành Kim Vân Kiều Truyện. Đại thi hào Nguyễn Du nhân vua nhà Nguyễn nước ta sai đi sứ sang Trung Hoa thời Thanh đã đọc được Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và ông đã xúc động mà viết nên Truyện Kiều.

Bởi vậy, “Đau đớn thay phận đàn bà” của Nguyễn Du chính là nhằm phản ánh về thân phận người phụ nữ của Trung Hoa phong kiến. Có thể nói, đại thi hào Nguyễn Du, thông qua Truyện Kiều đã cho nhân dân Việt Nam thấy được một góc cạnh của xã hội phong kiến Trung Hoa đương thời.

Văn hóa Việt Nam coi trọng người phụ nữ

Còn thực tế ở Việt Nam, người phụ nữ từ lâu đã được coi là chủ của “cái bếp”, người nắm giữ và phân phối kinh tế gia đình, xuất phát từ văn hóa nông nghiệp và lối sống định cư, dù là trong tục ngữ, ca dao:

Vắng đàn ông quạnh nhà, vắng đàn bà quạnh bếp

Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm

Đặc biệt, người phụ nữ còn có vai trò quan trọng hơn nam giới khi đưa ra các quyết định cụ thể:

Lệnh ông không bằng cồng bà

Người Việt Nam ta cũng đã phản ứng rất dữ dội với tư tưởng “trọng nam khinh nữ”:

Ba đồng một mớ đàn ông

Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha

Ba trăm một mụ đàn bà

Đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi!

Mặt khác, trong các câu chuyện cổ tích nước Nam, người phụ nữ luôn có một cái kết đẹp. Như cô Tấm qua nhiều gian truân cũng lấy được lấy hoàng tử. Trong chiến đấu, những tấm gương như Bà Trưng, Bà Triệu khiến quân giặc khiếp vía bởi họ chiến đấu không thua gì đàn ông. Bởi thế, người Việt ta mới có câu: “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”! Ít có xã hội nào có tâm thức coi trọng phụ nữ đến mức như vậy.

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vị trí vai trò của phụ nữ trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Bác từng nhấn mạnh: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cùng già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”.

Do đó, Bác Hồ đã khen tặng cho phụ nữ Việt Nam tám chữ vàng: “Anh hùng – Bất khuất – Trung hậu – Đảm đang”. Lưu bút của bà Trương Mỹ Hoa, nguyên Phó chủ tịch nước lưu tại điện thờ Huyền Trân công chúa tại Huế cũng đã viết như sau: Có những vấn đề của phụ nữ phải được giải quyết từ quốc gia, có những vấn đề của quốc gia phải giải quyết từ người phụ nữ.

Lần về quá khứ xa nhất của dân tộc, khi tổ phụ và tổ mẫu người Việt chúng ta là Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra bọc trứng nở trăm con thì chúng ta hiểu trai gái người Việt cổ sống với nhau chan chứa tình cảm như thế nào. Sau này, khi Lạc Long Quân và Âu Cơ dẫn con đi mỗi nơi mỗi ngả để phát triển cộng đồng dân tộc thì chính Âu Cơ đã nuôi dưỡng tốt năm mươi người con và người con trai cả theo Âu Cơ còn lên ngôi vua, sáng lập ra nước Văn Lang.

Cái tài của Nguyễn Du là đã dùng quan niệm về người phụ nữ của dân tộc ta để đả phá quan niệm về người phụ nữ trong nho giáo từ Trung Quốc du nhập vào nước ta. Đặc biệt, chữ “trinh” của Kiều trong tâm thức Nguyễn Du chính là:

Xưa nay trong đạo đàn bà,

Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường.

Có khi biến có khi thường,

Có quyền nào phải một đường chấp kinh.

Như nàng lấy hiếu làm trinh,

Bụi nào cho đục được mình ấy vay?

Gương trong chẳng chút bụi trần,

Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm.

Thân phận người kỹ nữ Trung Hoa, được Nguyễn Du miêu tả qua nhân vật Đạm Tiên khiến người Việt Nam ta không ai không xúc động:

Đau đớn thay phận đàn bà!

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

Phũ phàng chi bấy Hóa công

Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha

Sống làm vợ khắp người ta

Hại thay thác xuống làm ma không chồng.

Như vậy, “Đau đớn thay phận đàn bà” của Nguyễn Du là nói đến Đạm Tiên, một phụ nữ Trung Hoa tận đáy xã hội Trung Hoa với nghề kỹ nữ! Vương Thúy Kiều là kiếp sau của Đạm Tiên, cũng vướng vào nghề kỹ nữ. Nhưng khác với sự thật lịch sử bên Trung Hoa, Vương Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cuối cùng cũng tìm được hạnh phúc chân chính, chứ không phải là cái chết do nhảy xuống sông tự vẫn.

Đặc biệt, sau khi Kiều đã 15 năm lưu lạc thì Kim Trọng vẫn thủy chung chờ đợi và tìm kiếm nàng. Và lạ lùng thay, trong đêm tân hôn, Thúy Kiều đã xin đổi duyên vợ chồng với Kim Trọng thành duyên tri kỷ và Kim Trọng cũng đã đồng ý! Chỉ có văn hóa Việt Nam mới sinh ra được câu chuyện kỳ lạ như thế! Nghĩa là người phụ nữ quyết định được cuộc sống của chính mình!

Bởi vậy, có thể khẳng định Nguyễn Du không dịch Kim Vân Kiều Truyện ra tiếng Việt mà chỉ dựa vào cốt truyện để viết nên một truyện thơ mới thuần Việt, một truyện thơ mang tư tưởng nhân văn sâu sắc của người Việt Nam. Đánh giá về điều này, nhà thơ Tố Hữu từng viết trong bài thơ “Bài ca mùa xuân 1961” rằng:

Trải qua một cuộc bể dâu

Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình

Nổi chìm kiếp sống lênh đênh

Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều

Chính vì như vậy, Truyện Kiều mới có sức sống mãnh liệt trong lòng dân tộc ta như thế! Nó chính là một thái độ của dân tộc ta trước lễ giáo và quan niệm xã hội cổ hủ của nho giáo Trung Quốc. Vào thời kỳ Pháp thuộc, Phạm Quỳnh từng nói “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”.

Nguyễn Văn Toàn

Nguồn TBNH: http://thoibaonganhang.vn/truyen-kieu-va-nguoi-phu-nu-viet-nam-68905.html