Thị trường logistics Việt Nam thiếu những doanh nghiệp đầu tàu dẫn dắt

Đây là nhận định của ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương tại hội thảo 'Logistics thúc đẩy liên kết ngành và nâng cao chuỗi giá trị' ngày 28/6.

Các diễn giả thảo luận tại hội thảo.

95% doanh nghiệp hoạt động logistics Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ

Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới (World Bank ), Việt Nam xếp 43/155 nước và vùng lãnh thổ về chỉ số LPI (chỉ số hiệu quả logistics). Theo Agility, Việt Nam xếp 11/50 thị trường logistics mới nổi.

Còn theo thống kê của Hiệp hội Logistics Việt Nam (VLA), tốc độ phát triển ngành logistics tại Việt Nam đạt 14-16% với quy mô khoảng 40-42 tỷ USD mỗi năm.

Về số lượng doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành logistics tại Việt Nam, con số của Tổng cục Thống kê cho thấy, hiện có 43.568 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vận tải kho bãi, có 5.000 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ 3PL (hậu cần bên thứ 3). Tuy nhiên, 95% trong số này là doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Ông Trần Thanh Hải đánh giá, đến thời điểm hiện tại, đa số các doanh nghiệp dịch vụ logistics của Việt Nam mới chỉ hoạt động ở trong phạm vi của đất nước.

"Số doanh nghiệp Việt Nam đi ra được nước ngoài, tức là thành lập được doanh nghiệp, thành lập được công ty con, có văn phòng đại diện ở nước ngoài thì còn rất ít. Trong khi đó lại có rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài đến Việt Nam lập văn phòng, lập chi nhánh, lập công ty 100% vốn nước ngoài ngay trong lĩnh vực logistics", ông Hải phát biểu tại cuộc hội thảo do Hiệp hội Logistics Hà Nội và Sở Công Thương Hà Nội tổ chức.

CÁC DOANH NGHIỆP NÊN MẠNH DẠN TÌM KIẾM THỊ TRƯỜNG BÊN NGOÀI"Cần phải thúc đẩy các doanh nghiệp đi ra ngoài và tìm kiếm thị trường ở bên ngoài. Trước hết, đó có thể là thị trường của các nước láng giềng như là Lào, Campuchia, Myanmar cho đến Trung Quốc, Thái Lan… Đây đều là những đối tác thương mại lớn của Việt Nam" Ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu

Bên cạnh đó, là những vấn đề như hạ tầng logistics kết nối với hạ tầng thương mại, hạ tầng công nghệ thông tin cả trong nước và khu vực còn chưa cao.

Trong điều kiện thị trường cung cấp dịch vụ logistics của Việt Nam hiện có sự cạnh tranh gay gắt, càng làm bộc lộ rõ những nhược điểm cố hữu như sự thiếu liên kết giữa doanh nghiệp trong ngành, vấn đề chi phí dịch vụ còn cao, đối nghịch với đó là chất lượng cung cấp một số dịch vụ lại chưa đủ tốt.

"Đặc biệt là hiện trong nước đang rất thiếu những doanh nghiệp lớn, những doanh nghiệp đầu tàu để có thể tạo ra những xu hướng, tạo ra những con sóng, tạo ra những định hướng để lôi kéo và thúc đẩy dịch vụ logistics trong nước phát triển," ông Hải nói.

Thiếu kho lạnh đang là vấn đề lớn đối với ngành thủy sản

Nêu ví dụ cụ thể về những khó khăn của doanh nghiệp liên quan đến dịch vụ logistics, đại diện một ngành hàng có nhu cầu lớn về dịch vụ vận tải lạnh, bà Trần Hoàng Yến, Phó Trưởng văn phòng đại diện Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, ngành thủy sản đang gặp vấn đề lớn về việc thiếu kho lạnh, nhất là trong những dịp cao điểm hoặc khi gặp khó khăn về thị trường.

Kho đông lạnh bảo quản đóng vai trò không thể thiếu trong quy trình sản xuất, cung ứng thủy sản, đảm bảo chất lượng của sản phẩm thủy sản. Thậm chí, điều kiện bảo quản của kho lạnh quyết định đến chất lượng của sản phẩm thủy sản.

Hiện hầu hết các doanh nghiệp thủy sản đều phải đầu tư kho bảo quản đông lạnh để hoàn chỉnh quy trình, tuy nhiên theo bà Trần Hoàng Yến, công suất này thường chỉ đủ cho chính doanh nghiệp đó trong ít ngày sản xuất. Hơn nữa, kho thương mại dịch vụ cho thủy sản đông lạnh xuất nhập khẩu chủ yếu ở miền Nam, còn miền Bắc và miền Trung vẫn còn hạn chế.

Về vấn đề vận chuyển, đại diện VASEP cho biết, thực tế ngành thủy sản vận chuyển trong nội địa chủ yếu bằng đường bộ, chưa có nhiều tuyến đường sắt và đường thủy. Điều này tạo ra chi phí cao, nhiều phát sinh và đây là vấn đề các doanh nghiệp thủy sản đều đã có kiến nghị.

Bà Yến đưa ra một con số so sánh để thấy rõ, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam đang chịu thiệt thòi so với các doanh nghiệp nước ngoài: Hiện tại giá bán tôm của Việt Nam cao hơn của Ấn Độ 2 USD/kg và cao hơn của Ecuador 4 USD/kg.

"Điều này làm giảm sức cạnh tranh của xuất khẩu thủy sản Việt Nam, mà một phần nguyên nhân đến từ dịch vụ logistics còn chưa đáp ứng được như cầu", bà Trần Hoàng Yến nhận định.

Cùng bàn về vấn đề này, ông Nguyễn Công Cường, Phó Chủ tịch Hội Doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghiệp chủ lực Hà Nội (HAMI), Chủ tịch Công ty NCC cho biết trong hệ thống logistics, đường bộ vẫn chiếm phần lớn trong việc vận chuyển hàng hóa.

Song, việc phát triển và duy trì đường bộ đòi hỏi sự đầu tư lớn về cơ sở hạ tầng và bảo trì, từ việc xây dựng đường, cầu, cao tốc đến việc duy trì hệ thống giao thông. Chi phí này thường được chuyển cho người tiêu dùng thông qua giá cước vận chuyển, gây tăng chi phí cho hoạt động logistics.

Theo ông Cường, sự chưa đồng bộ trong hệ thống giao thông gây ra sự gián đoạn và lãng phí thời gian trong quá trình vận chuyển. Các bất cập như ùn tắc giao thông, thiếu cơ sở hạ tầng, quy định pháp lý không rõ ràng, công tác quản lý dẫn đến tăng thời gian và chi phí vận chuyển hàng hóa.

Là doanh nghiệp hoạt động trong sản xuất công nghiệp, ông Cường đánh giá cơ sở hạ tầng bến bãi và đường xá cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý hàng hóa và vận chuyển.

"Tuy nhiên, việc thiếu đầu tư và bảo trì cơ sở hạ tầng này có thể gây ra hạn chế và trì hoãn trong quá trình logistics. Việc nâng cấp và cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ đòi hỏi sự đầu tư lớn và có ảnh hưởng đến chi phí logistics", ông Cường nói.

Từ những thực tế đó, các hiệp hội, doanh nghiệp đưa ra những kiến nghị nhằm cải thiện hệ thống dịch vụ logistics hiện nay.

Về hệ thống logistics cho xuất khẩu thủy sản, bà Trần Hoàng Yến đề xuất Chính phủ cần có cơ chế về đất đai và ưu đãi nguồn vốn trung, dài hạn để khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư nhiều hơn cho hệ thống kho bảo quản đông lạnh và kho bãi đạt tiêu chuẩn.

Đồng thời với đó, nên có các giải pháp đa dạng và dài hạn nhằm xây dựng năng lực và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dịch vụ vận tải biển Việt Nam.

Về lâu dài, Chính phủ và các địa phương cần đầu tư nhiều hơn cho cơ sở hạ tầng logistics của nghề cá như cảng cá, chợ cá... "Đây là mô hình các nước phát triển về xuất khẩu thủy sản đã áp dụng và rất thành công", đại diện VASEP nói.

Cũng trong khuôn khổ hội thảo, các đại biểu đã chứng kiến lễ ký kết biên bản ghi nhớ (MOU) giữa Hiệp hội Logistics Hà Nội (HNLA) với Hội Doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghiệp chủ lực Hà Nội (HAMI).

Thu Thảo

Nguồn Mekong Asean: https://mekongasean.vn/thi-truong-logistics-viet-nam-thieu-nhung-doanh-nghiep-dau-tau-dan-dat-post23516.html