Thế giới quản lý thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng thế nào

Theo báo cáo của WHO, đối với thuốc lá điện tử, đã có ít nhất 39 quốc gia và vùng lãnh thổ cấm hoàn toàn các sản phẩm thuốc lá điện tử.

Theo số liệu của Tổ chức Y tế thế giới và Tổ chức Campaign for Tobacco-Free Kids, Hoa Kỳ, số lượng các quốc gia và vùng lãnh thố áp dụng chính sách cấm sản phẩm này đang tăng lên.

Nhiều nước đã cấm thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng.

Cụ thể, đã có ít nhất 39 quốc gia và vùng lãnh thổ quy định cấm hoàn toàn các sản phẩm thuốc lá điện tử. Ít nhất 3 quốc gia và vùng lãnh thổ chuyển từ quy định kiểm soát như dược phẩm sang quy định cấm (Hong Kong, Đài Loan, Venezuela). Trong khu vực ASEAN, đã có 5 quốc gia quy định cấm hoàn toàn thuốc lá điện tử là Thái Lan, Singapore, Lào, Brunei và Campuchia.

Kinh nghiệm điển hình từ Singapore đó là từ năm 2016, áp dụng quy định cấm hoàn toàn thuốc lá điện tử và các dạng thuốc lá mới khác có thể sẽ phát sinh.

Điều này tạo điều kiện để dễ dàng thanh kiểm tra và xử phạt mọi sản phẩm thuốc lá mới lưu hành trên thị trường sau thời điểm Luật có hiệu lực.

Bên cạnh đó, quản lý thuốc lá điện tử dưới dạng dược phẩm được cấp phép và thuốc kê đơn được điều trị theo phác đồ được quy định tại 3 quốc gia gồm là Chile, Úc và Nhật. Thực tế chưa có sản phẩm thuốc lá điện tử nào được bán dưới dạng sản phẩm cai thuốc lá do không chứng minh được dữ liệu lâm sàng.

Đối với thuốc lá nung nóng, ít nhất 18 quốc gia cấm (trong đó có 5 quốc gia thuộc ASEAN gồm Capuchia, Lào, Singapore, Thái Lan, Brunei). Không có quốc gia nào bán thuốc lá nung nóng dưới dạng dược phẩm được cấp phép và thuốc kê đơn theo phác đồ điều trị.

Qua đánh giá quy định các quốc gia và vùng lãnh thổ cho thấy việc áp dụng biện pháp cấm hay quản lý thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng là phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội và tình hình sử dụng thuốc lá hiện tại và năng lực quản lý, theo dõi và kiểm định của mỗi quốc gia. Nhìn chung, có những điểm tương đồng như sau:

Đối với các quốc gia có quy định cấm khi, các biện pháp kiểm soát thuốc lá theo Công ước WHO FCTC chưa được thực hiện tốt hoặc toàn diện, tỷ lệ hút thuốc lá ở người trưởng thành vẫn còn cao, có những hạn chế về nguồn lực quản lý, theo dõi và thực thi pháp luật hoặc lựa chọn áp dụng nguyên tắc cẩn trọng để ngăn chặn sự bắt đầu và giảm thiểu tác hại cho người dân do thuốc lá mới gây ra.

Còn với các quốc gia có quy định quản lý sản phẩm này như dược phẩm khi có hệ thống và quy trình phê duyệt thuốc như sản phẩm điều trị chặt chẽ. Ngoài ra, các quốc gia này có năng lực để quản lý, cấp phép và giám sát tốt.

Các quốc gia có quy định quản lý sản phẩm này như thuốc lá điếu thông thường phần lớn là các quốc gia phát triển. Đây là những quốc gia đã có thành tựu giảm tỷ lệ sử dụng thuốc lá hiệu quả và đang duy trì ở mức thấp, đang thực hiện tốt các quy định về môi trường không khói thuốc lá và áp dụng nhiều biện pháp kiểm soát chặt như tăng độ tuổi được phép mua thuốc lá (từ 18 tuổi đến 21 tuổi), cấm quảng cáo, khuyến mại thuốc lá, mức giá và áp thuế thuốc lá cao.

Ngoài ra, Chính phủ các nước này có đủ nguồn lực để giám sát, ngăn ngừa vi phạm và tổ chức truyền thông về việc ngăn ngừa sử dụng sản phẩm này ở giới trẻ và các nhóm dễ tổn thương.

Thực tế cho thấy cho tới nay chưa có quốc gia nào thành công trong việc quản lý sản phẩm này để ngăn ngừa sự gia tăng tỷ lệ sử dụng các sản phẩm nicotine và thuốc lá mới trong giới trẻ.

Kinh nghiệm nhiều nước như Mỹ, Hàn Quốc, Anh, Ý và Canada… cho thấy sau khi hợp pháp hóa sản phẩm này thì tỷ lệ sử dụng ở giới trẻ tăng lên nhanh chóng.

Khuyến cáo chung của WHO với tất cả các quốc gia là có thể cấm các sản phẩm này tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội, tình hình sử dụng thuốc lá hiện nay và năng lực quản lý. Đối với Việt Nam, văn phòng WHO đã khuyến cáo là nên cấm tất cả các sản phẩm thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng.

Theo các đánh giá sơ bộ so sánh các một số nước cho thấy các quốc gia không cho phép thường có tỷ lệ sử dụng thuốc lá điện tử ở giới trẻ thấp hơn nhiều so với các quốc gia cho phép.

Kinh nghiệm ở Thái Lan, là một quốc gia có lệnh cấm toàn diện đối với thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng từ rất sớm cho thấy mặc dù tỷ lệ sử dụng thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng của giới trẻ vẫn tăng lên nhưng có mức độ chậm hơn nhiều (từ 2,6% năm 2015 lên 8,1% năm 20 so với các quốc gia khác như Phillipines (tỷ lệ sử dụng thanh thiếu niên là 14,1% năm 2019).

Và mặc dù tình hình thuốc lá điện tử lậu vẫn diễn ra nhưng do phải bán chui nên vẫn hạn chế được khả năng tiếp cận đối với các sản phẩm này. Ngược lại, mặc dù cho phép nhưng tại Philippines vẫn tồn tại các sản phẩm lậu trà trộn khó kiểm soát, do vậy người dùng được tiếp cận rộng rãi hơn.

Ngược lại, tại các quốc gia cho phép sử dụng thuốc lá điện tử và nung nóng, mặc dù có các chính sách quản lý chặt đối với vấn để sử dụng trong thanh thiếu niên, nhưng khả năng thực thi khó, do vậy chỉ một trong một thời gian ngắn thì tỷ lệ sử dụng trong giới trẻ tăng lên rất nhanh.

Thực tế cho thấy, các quốc gia cho phép các sản phẩm thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng nhưng ban hành các chính sách về cấm bán cho trẻ vị thành niên đã thất bại trong việc ngăn chặn việc sử dụng của giới trẻ.

Tại Hoa Kỳ, giai đoạn 2017-2019 tỷ lệ sử dụng thuốc lá điện tử tăng vọt từ 11,7% lên 27,5% ở học sinh THPT, và từ 3,3% lên 10,5% ở học sinh THPT.

Tại Vương quốc Anh, sử dụng thuốc lá điện tử ở trẻ em gái 15 tuổi đã tăng từ 10% vào năm 2018 lên 21% vào năm 2021, trong khi ở New Zealand 27% thanh niên sử dụng thuốc lá điện tử.

Ở các quốc gia này, việc sử dụng thuốc lá điện tử cũng đã không đẩy nhanh sự suy giảm tỷ lệ hút thuốc lá điếu thông thường, một tỷ lệ lớn (thường là đa số) người hút thuốc sử dụng thuốc lá điện tử là người dùng kép (sử dụng đồng thời thuốc lá điện tử với các sản phẩm thuốc lá và/hoặc thuốc lá nung nóng) thay vì bỏ hút thuốc.

Bên cạnh đó, với việc sử dụng thuốc lá điện tử ngày càng tăng, hàng ngàn trường hợp ngộ độc nicotine, cả vô tình (chủ yếu là ở trẻ nhỏ) và cố ý (trong thanh thiếu niên và người lớn), đã được báo cáo ở Mỹ, Châu Âu và các quốc gia khác trong những năm gần đây.

Số trường hợp ngộ độc liên quan đến sản phẩm thuốc lá điện tử được báo cáo cho các trung tâm kiểm soát chất độc của Mỹ đã tăng gấp đôi từ năm 2018 đến đầu năm 2023.

Từ năm 2015 đến tháng 8 năm 2023, tổng cộng 100 trường hợp được báo cáo tiếp xúc với ngộ độc thuốc lá điện tử và chất lỏng của thuốc lá điện tử ở Malaysia, trong đó gần một nửa (46%) liên quan đến trẻ em dưới 5 tuổi.

Tại Úc, hơn 140 trẻ em dưới 4 tuổi đã tiếp xúc với nicotin vào năm 2022, trong đó có 17 trẻ dưới 12 tháng tuổi. Các bệnh viện ở Canada đã ghi nhận 68 trường hợp bị thương hoặc ngộ độc do sử dụng thuốc lá điện tử từ năm 2011 đến năm 2019.

Tại Việt Nam, quan điểm của Bộ Y tế về thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng, đây là các sản phẩm mới và không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá.

Việc sửa đổi, bổ sung Luật Phòng chống tác hại thuốc lá là rất cần thiết để quy định cấm các sản phẩm thuốc lá mới. Tuy nhiên, trình tự, thủ tục của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần nhiều thời gian, dự kiến tối thiểu 3-5 năm.

Trong khi đó, thuốc lá mới là vấn đề đang rất nóng, dư luận cực kỳ quan tâm, các sản phẩm có khả năng gây nghiện nhanh, đặc biệt đối tượng học sinh, sinh viên. Do đó, cần phải khẩn trương có biện pháp để ngăn chặn kịp thời, tránh cho có thêm nhiều người trong tương lai nghiện nicotine và nguy hại đến sức khỏe.

Do vậy, trước mắt, Bộ Y tế đang nghiên cứu đề xuất Chính phủ trình Quốc hội ban hành Nghị quyết cấm sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu, quảng cáo thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng và các sản phẩm thuốc mới mới khác có thể sẽ xuất hiện trong tương lai.

Về lâu dài, Bộ Y tế sẽ trình Chính phủ, Quốc hội để xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Phòng chống tác hại thuốc lá để bổ sung quy định này vào Luật để bảo đảm tính ổn định trong triển khai thực hiện.

Thuốc lá điện tử sẽ tiếp tục gây gánh nặng bệnh tật và chi phí bệnh tật lớn tại Việt Nam. Theo WHO, trên thế giới, sử dụng các sản phẩm thuốc lá điếu thông thường đã khiến cho 8 triệu người tử vong mỗi năm (7 triệu do hút thuốc trực tiếp và 1.2 triệu do hút thuốc thụ động). Tổn thất kinh tế trên toàn cầu 1 nghìn tỷ USD.

Tại Việt Nam, WHO ước tính sử dụng thuốc lá gây ra ít nhất 40 ngàn ca tử vong mỗi năm. Chi tiêu cho hút thuốc lá 49.000 tỷ VND/năm (ước tính từ tổng tiêu thụ năm 2020).

Chi phí điều trị mới chỉ 5/25 nhóm bệnh (ung thư phổi, ung thư đường tiêu hóa-hô hấp trên, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, nhồi máu cơ tim, đột quỵ) trên tổng số 25 bệnh do thuốc lá gây ra tại Việt Nam khoảng 1% GDP tương đương với 3 tỷ USD (67.000 tỷ đồng). Thuốc lá điện tử, thuốc lá làm nóng không làm giảm đi các vấn đề này mà thậm chí sẽ làm tăng các chi phí hơn nữa.

Việc cho phép các sản phẩm thuốc lá mới đi ngược lại các nguyên tắc giảm cung, giảm cầu của Công ước khung về kiểm soát thuốc lá, Chiến lược quốc gia về Phòng chống tác hại của thuốc lá và Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá.

Chiến lược quốc gia về phòng chống tác hại của thuốc lá, Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá của Việt Nam, các nguyên tắc của Công ước khung về kiểm soát thuốc lá mà Việt Nam là thành viên đều thể hiện quan điểm nhất quán chính sách của Nhà nước ta là từng bước giảm nguồn cung cấp thuốc lá.

Việc cho phép các sản phẩm thuốc lá mới sẽ làm tăng tỷ lệ sử dụng thuốc lá trở lại, gây khó khăn cho công tác phòng chống tác hại của thuốc lá và nỗ lực của công tác cai nghiện thuốc lá, trái với nguyên tắc giảm nguồn cung và giảm tỷ lệ sử dụng thuốc lá tại Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá và Chiến lược quốc gia phòng, chống tác hại của thuốc lá.

Chúng ta sẽ phải nỗ lực hơn, tốn kém nhân lực và tài chính hơn nữa trong việc giảm tỷ lệ hút thuốc lá, giải quyết những gánh nặng bệnh tật và tử vong do thuốc lá cũng như các hệ lụy về xã hội, môi trường, kinh tế, ảnh hưởng đến phát triển bền vững đất nước.

Trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc giảm nhu cầu sử dụng thuốc lá với thành tựu là giảm được tỷ lệ sử dụng thuốc lá điếu thông thường trong nam giới trưởng thành trung bình 0,5% mỗi năm (từ 47,4% năm 2010 (điều tra GATS 2010) xuống còn 38,9% năm 2023 (PGATS 2023).

Tỷ lệ hút thuốc ở thanh thiếu niên cũng đã giảm, trong đó, ở nhóm 13-17 tuổi đã giảm từ 5,36% năm 2013 xuống còn 2,78% năm 2019, ở nhóm 13-15 tuổi giảm từ 2,5% (GYTS 2014) xuống còn 1,9% (GYTS 2022).

Đây là những kết quả rất đáng khích lệ trong công tác phòng, chống tác hại của thuốc lá. Tuy nhiên, những thành tựu này có nguy cơ bị phá bỏ bởi việc gia tăng nhanh chóng tỷ lệ sử dụng thuốc lá mới (chủ yếu là thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng).

Đặc biệt là trong giới trẻ, cụ thể, tỷ lệ sử dụng thuốc lá điện tử ở người trưởng thành tăng từ 0,2% năm 2015 lên 3,6% năm 2020, trong khi đó, tỷ lệ học sinh từ lớp 6 đến lớp 12 hiện đang sử dụng thuốc lá điện tử năm 2023 là 7,0%.

Thực tế cho thấy, thuốc lá điện tử và kể cả một số loại thuốc lá nung nóng mới phát sinh, có sử dụng nhiều hương liệu, hóa chất không phải là từ nguyên liệu lá thuốc lá điếu thông thường.

Nguyên liệu phối trộn nhiều loại thành phần khác nhau nên có thể bị lợi dụng để sử dụng ma túy. Thông qua việc phối trộn, người sử dụng có thể tự ý tăng tỷ lệ nicotine quá mức hoặc thêm ma túy và các chất gây nghiện khác vào để sử dụng mà khó bị phát hiện.

TS.Nguyễn Trung Nguyên, Giám đốc Trung tâm Chống Độc Bệnh viện Bạch Mai cho biết, thuốc lá điện tử sử dụng nhiều hương liệu, hóa chất nên có thể bị lợi dụng để sử dụng ma túy thông qua việc phối trộn.

Người sử dụng có thể tự ý tăng tỷ lệ nicotine quá mức hoặc thêm ma túy và các chất gây nghiện khác vào để sử dụng mà khó bị phát hiện. Không chỉ có nicotine mà còn có nhiều chất khác có hại cho sức khỏe người dùng.

Theo TS.Nguyên, chi phí điều trị cho những ca ngộ độc thuốc lá điện tử trộn ma túy cấp tính nhẹ đến những ca nặng tiêu tốn trung bình từ trên 10 triệu đến hàng trăm triệu đồng.

“Việt Nam cần khẩn cấp cấm việc sản xuất, lưu hành thuốc lá điện tử có như vậy mới phòng tránh được một loạt vấn đề lớn và nghiêm trọng về sức khỏe với người dân", Giám đốc Trung tâm Chống độc nói.

D.Ngân

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/the-gioi-quan-ly-thuoc-la-dien-tu-thuoc-la-nung-nong-the-nao-d214488.html