THẨM TRA DỰ THẢO NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ THÍ ĐIỂM BỔ SUNG MỘT SỐ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH ĐẶC THÙ PHÁT TRIỂN TỈNH NGHỆ AN

Chiều 14/5, tiếp tục chương trình Phiên họp thứ 33, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm bổ sung một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An.

Tại phiên họp, thay mặt cơ quan thẩm tra dự thảo Nghị quyết, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách (TCNS) của Quốc hội Lê Quang Mạnh khẳng định: Căn cứ Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển tỉnh Nghệ An đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết số 45/2024/UBTVQH15 của UBTVQH, qua tổng kết Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết số 36/2021/QH15 của Quốc hội và theo Báo cáo của Chính phủ cho thấy, các quy định hiện hành chưa đủ động lực để tạo bước đột phá trong phát triển, chưa bao quát hết các vấn đề phát sinh cần có cơ chế đặc thù. Để tạo tiền đề cho phát triển tỉnh Nghệ An trong những năm tiếp theo, cần nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện một bước các cơ chế, chính sách đặc thù.

Vì vậy, Thường trực Ủy ban TCNS cho rằng, việc Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến để Quốc hội xem xét, quyết định đối với Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm bổ sung một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An là có căn cứ chính trị, căn cứ pháp lý và đúng thẩm quyền.

Toàn cảnh Phiên họp thứ 33 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm bổ sung một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An.

Toàn cảnh Phiên họp thứ 33 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm bổ sung một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Nghệ An.

Về nhóm chính sách tương tự đã được áp dụng tại các địa phương khác hoặc tương tự nhưng có điều chỉnh, bổ sung để phù hợp với tình hình thực tiễn tại Nghệ An và một số chính sách mới: Thường trực Ủy ban TCNS cơ bản nhất trí với những chính sách Chính phủ trình. Chi tiết nội dung được thể hiện cụ thể trong báo cáo đầy đủ. Đối với một số chính sách khác, Thường trực Ủy ban Tài chính-Ngân sách có ý kiến như sau:

Về quy định bổ sung lĩnh vực thể thao, văn hóa được thực hiện theo phương thức đối tác công tư: Đa số ý kiến trong Thường trực Ủy ban TCNS cơ bản nhất trí với phương án Chính phủ trình, vì: Việc cho phép mở rộng lĩnh vực được thực hiện theo phương thức đối tác công tư sẽ góp phần giúp tỉnh Nghệ An huy động thêm nguồn lực ngoài NSNN; Tận dụng được kinh nghiệm, cách thức, phương pháp đầu tư tiên tiến, hiện đại từ khu vực tư nhân; Chính sách này đã được áp dụng tương tự tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Về quy định mở rộng phạm vi điều chỉnh tăng tỷ lệ vốn nhà nước tham gia không quá 70% đối với lĩnh vực văn hóa, thể thao, các dự án thực hiện trên địa bàn miền Tây Nghệ An, nhiều ý kiến trong Thường trực Ủy ban TCNS đề nghị cân nhắc thêm về chính sách này.

Về tổ chức bộ máy đối với thành phố Vinh (khoản 2 Điều 6): Thường trực Ủy ban TCNS đề nghị cân nhắc nội dung này để bảo đảm: quy định tăng thêm số lượng bộ máy chính quyền của HĐND cho thành phố Vinh phải gắn với việc mở rộng địa giới đơn vị hành chính, phù hợp với mục tiêu của Nghị quyết số 37-NQ/TW và Kết luận số 48-KL/TW của Bộ Chính trị về tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cần quy định rõ nội dung, chức năng, nhiệm vụ được phân công tăng thêm, từ đó, làm rõ sự cần thiết phải ban hành chính sách đặc thù này. Việc thay đổi, mở rộng về bộ máy chính quyền, đề nghị cần phải báo cáo Bộ Chính trị theo quy định trước khi thực hiện.

Về chính sách cho phép tỉnh Nghệ An được phân bổ thêm 50% số vốn đầu tư công nguồn NSTW bổ sung có mục tiêu cho địa phương theo nguyên tắc, tiêu chí và định mức quy định tại Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2026-2030 để đầu tư các công trình hạ tầng trọng điểm trên địa bàn tỉnh và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vùng miền Tây Nghệ An”: Đa số ý kiến trong Thường trực Ủy ban TCNS nhất trí với quy định này vì: Tỉnh Nghệ An hiện là tỉnh đang nhận bổ sung cân đối từ NSTW, theo đó nguồn lực cho đầu tư phát triển còn hạn chế, điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn. Để tạo đà phát triển, nhất là phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội miền Tây Nghệ An, rất cần có sự hỗ trợ thêm nguồn lực đầu tư công từ NSTW. Việc cho phép phân bổ thêm 50% số vốn đầu tư công nguồn NSTW bổ sung có mục tiêu cho địa phương nói trên sẽ bảo đảm tính ổn định và công khai, minh bạch, rõ ràng của chính sách; tạo sự chủ động cho địa phương trong việc cân đối, lập kế hoạch bố trí nguồn lực cho các dự án; hạn chế, khắc phục được cơ chế “xin cho”. Chính sách này tương tự như chính sách cho phép tỉnh Nghệ An được phân bổ thêm 45% so với định mức chi thường xuyên được áp dụng từ năm 2022. Do vậy, nhất trí với quy định tại Dự thảo Nghị quyết.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh.

Theo Chủ nhiệm Ủy ban TCNS Lê Quang Mạnh, một số ý kiến đề nghị cân nhắc nội dung này do: Còn nhiều địa phương trong cả nước khó khăn cả về hạ tầng, điều kiện kinh tế-xã hội cần hỗ trợ, đầu tư từ Trung ương. Việc bố trí nguồn lực đầu tư NSTW cần đảm bảo cân đối, hài hòa trong tổng thể chung. Việc quy định chính sách này áp dụng cho giai đoạn sau cần cân nhắc khi chưa có kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2026-2030 cũng như đánh giá khả năng thu, nhiệm vụ chi giai đoạn sau; Mức phân bổ thêm 50% số vốn đầu tư công nguồn NSTW bổ sung có mục tiêu cho Nghệ An cần được xem xét, căn cứ phù hợp với quy định khoản 3 Điều 40 của Luật NSNN: Tổng mức hỗ trợ vốn đầu tư phát triển hằng năm của NSTW cho NSĐP quy định tại điểm này tối đa không vượt quá 30% tổng chi đầu tư xây dựng cơ bản của NSTW. Vì vậy, đề nghị nội dung này sẽ được UBTVQH xem xét khi quyết định tiêu chí, nguyên tắc, định mức phân bổ chi đầu tư cho giai đoạn sau.

Về điều tiết nguồn thu tiền sử dụng đất, tiền cho thuê đất (khoản 5 Điều 3): Đa số ý kiến trong Thường trực Ủy ban TCNS nhận thấy, hiện Bộ Chính trị đang giao Ban cán sự Đảng Chính phủ xây dựng Đề án về vai trò chủ đạo của NSTW trong đó có xem xét điều tiết nguồn thu từ đất đai. Theo quy định hiện hành thì đây chưa phải là khoản thu điều tiết (NSĐP hưởng 100%). Việc ban hành chính sách cần được đặt trong quá trình xem xét tổng thể khi triển khai thực hiện Nghị quyết số 18 của Bộ Chính trị, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và tương đồng giữa các địa phương. Với tính chất là Nghị quyết thí điểm, đề nghị không xem xét quy định tại Nghị quyết này. Việc ban hành chính sách thí điểm là thực hiện chính sách khác với quy định của pháp luật hiện hành, trong khi pháp luật hiện hành chưa có quy định về việc điều tiết nguồn thu này.

Về thẩm quyền quyết định lựa chọn áp dụng tiêu chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế kỹ thuật (Khoản 2 Điều 4): Thường trực Ủy ban TCNS và Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đề nghị cân nhắc không quy định nội dung này vì: Hiện nay hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong nước được điều chỉnh bởi Luật Xây dựng và pháp luật khác có liên quan. Vì vậy, việc cho phép UBND quyết định lựa chọn áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong nước và nước ngoài là chưa hợp lý, chưa rõ sự bất cập cần phải có quy định này, đặc biệt trong trường hợp tiêu chuẩn, quy chuẩn trong nước có sự khác biệt, cao hơn so với quy định của nước ngoài thì việc làm rõ căn cứ lựa chọn là cần thiết.

Các đại biểu tham dự Phiên họp.

Các đại biểu tham dự Phiên họp.

Chủ nhiệm Ủy ban TCNS Lê Quang Mạnh cho rằng, việc UBND quy định tiêu chuẩn, quy chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí, đơn giá trong các lĩnh vực, phương thức thực hiện, phương thức thanh toán khác hoặc chưa được quy định trong văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên là quy định hoàn toàn mới, chưa được áp dụng tại các địa phương khác song Dự thảo Nghị quyết chưa làm rõ được căn cứ, tính cấp thiết cũng như đánh giá rõ tác động của chính sách này. Đặc biệt khi việc ban hành chính sách này cần có ý kiến tham gia của các bộ chuyên ngành để bảo đảm tính khả thi cũng như nguồn lực thực hiện.

Việc áp dụng chính sách không gắn với phạm vi, lĩnh vực cụ thể là quá rộng, ảnh hưởng đến tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, dễ dẫn đến tình trạng lạm dụng, trục lợi. Dự thảo quy định thẩm quyền UBND tỉnh khá lớn, song chưa quy định về trách nhiệm để bảo đảm đi đôi với năng lực thực hiện trong đánh giá, lựa chọn, ban hành quy định.

Về các đặc thù về số lượng cấp phó (khoản 1 Điều 6): Dự thảo quy định: UBND tỉnh Nghệ An có không quá 05 (năm) Phó Chủ tịch. Thường trực Ủy ban TCNS cho rằng, Nghị định số 08/2016/NĐ-CP ngày 25/01/2016 của Chính phủ quy định số lượng Phó Chủ tịch UBND (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 69/2020/NĐ-CP và Nghị định số 115/2021/NĐ-CP),… đã phần nào tháo gỡ được những vướng mắc, bất cập về cán bộ, công chức cấp xã và số lượng cấp phó của các địa phương. Đây là nội dung liên quan đến chủ trương tinh giản biên chế, giảm cấp phó theo các nghị quyết của Trung ương, của Bộ Chính trị và thuộc thẩm quyền quyết định của Bộ Chính trị. Vì vậy, đề nghị Chính phủ cần báo cáo, xin ý kiến của cấp có thẩm quyền trước khi trình Quốc hội xem xét, quyết định chính sách này./.

Bích Lan - Nghĩa Đức

Nguồn Quốc Hội: https://quochoi.vn/tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?itemid=86842