Tản mạn chuyện sắc không

Trong Bát-nhã Tâm kinh có câu, 'Sắc bất dị không,không bất dị sắc. Sắc tức thị không, không tức thị sắc'. Đây là cái nhìn củaPhật giáo về tính duyên sinh vô ngã của các pháp. Tính này thể hiện cùng khắp,trong mọi khía cạnh của thế gian. Và sau đây là một vài biểu hiện và ứng dụng củatính chất này trong cuộc sống, bao gồm cả vật lý và tâm lý.

Các nhà sư Phật giáo đã ứng dụng tinh thần Sắc-Không để đi vào cuộc sống và phục vụ hiệu quả

“Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thịkhông, không tức thị sắc” nghĩa là:“Sắc không khác với Không và Không cũng không khác với Sắc. Sắc chính làKhông và Không cũng chính là Sắc”. Sự vật, sự việc vừa là nó mà cũng vưàkhông phải là nó. Sắc ở đây là chỉ cho một sự vật hay sự việc, còn Không là chỉcho tính duyên sinh vô ngã của sự vật, sự việc đó. Ví dụ một bông hoa vừa làchính nó nhưng cũng vừa không phải là nó, vì nó được tạo ra từ những cái khácnhư đất, nước, ánh sáng, bàn tay người chăm sóc… Đồng thời, những cái không phảilà bông hoa nhưng cũng hàm chứa bông hoa ở trong đó. Ví dụ như trong đất, nước,ánh sáng, bàn tay… cũng có yếu tố bông hoa trong đó, vì chúng góp phần tạo nênmột bông hoa.

Y học cổ truyềncho rằng cơ thể chúng ta có nhiều huyệt trên da và mỗi một huyệt có liên hệ vơímột hay nhiều bộ phận khác bên trong lục phủ ngũ tạng. Từ đó mà hình thành nênnhững phương pháp trị bịnh như châm cứu, bấm huyệt, diện chẩn, cách tác độngvào một điểm nào đó bên ngoài cơ thể để trị các bịnh bên trong cơ thể. Ví dụnhư bấm huyệt Dũng tuyền dưới lòng bàn chân có tác dụng làm mạnh thận, trị chứngmất ngủ, đau đầu, cao huyết áp… Cho nên ta có thể nói ở đây là, “Huyệt Dũng tuyềnkhông khác với thận và thận cũng không khác với huyệt Dũng tuyền. Huyệt Dũngtuyền tức là thận và thận cũng tức là huyệt Dũng tuyền”.

Xem những tiêủthuyết của Kim Dung, chúng ta dễ dàng nhận ra tinh thần Sắc-Không trong cácnhân vật của ông. Những nhân vật trong tác phẩm của Kim Dung, rất hiếm có nhânvật nào là thuần thiện hoặc thuần ác. Một nhân vật tưởng chừng như cực kỳ ácnhưng ẩn sâu bên trong sự ác độc đó là một trái tim cay đắng đến tận cùng. Họ độcác không phải vì bản chất họ như vậy mà do hoàn cảnh tạo nên. Ví dụ như hainhân vật Tạ Tốn và Thành Côn trong phim Cô gái Đồ Long. Tạ Tốn một mìnhđi trong cõi giang hồ, đi đến đâu ông giết người hàng loạt đến đó, nhất là cácnhân vật chính yếu trong võ lâm, trong đó có Không Kiến Hòa thượng, một trong“Tứ đại thần tăng” đương thời của chùa Thiếu Lâm.

Nhìn sơ qua thì ta thấy Tạ Tốnlà một kẻ khát máu, nhưng đằng sau sự điên cuồng đó là một câu chuyện bi thươngkhông nói nên lời. Trước khi là một trong “Tứ đại pháp vương” của Minh Giáo, TạTốn là đệ tử của Hỗn Nguyên Phích Lịch Thành Côn. Tình sư đồ gắn bó đến nỗi ôngcoi Thành Côn như cha của mình. Nhưng đến một hôm, lúc Tạ Tốn vắng nhà, ThànhCôn say rượu hãm hiếp vợ ông và giết hại cả gia đình ông. Tạ Tốn biết chuyện rấttức giận và đau khổ, mới quyết tâm trả thù Thành Côn. Tạ Tốn liền mạo danhThành Côn đi giết hại khắp nơi với hy vọng Thành Côn sẽ ra mặt để minh oan chomình. Nhưng Thành Côn không ra mặt làm cho Tạ Tốn càng say máu và lún sâu vàovòng tội lỗi.

Vậy người có tội không phải Tạ Tốn mà chính là ThànhCôn. Thành Côn đã giết hại cả nhà Tạ Tốn, làm cho Tạ Tốn trở thành kẻ thù củatoàn thể võ lâm chính phái với mưu đồ mượn tay võ lâm để tiêu diệt Minh Giáo,trả thù riêng cho mình. Ấy vậy mà Thành Côn cũng đâu phải là một người hạnhphúc và hoàn toàn ác. Ông đã từng có một mối tình tuyệt đẹp nhưng không thành.Dương Đính Thiên là giáo chủ Minh Giáo đời thứ 33. Dương phu nhân là vợ củaDương Đính Thiên, cũng là người yêu thuở trước của Thành Côn. Tuy nhiên Dươngphu nhân và Thành Côn không đến được với nhau vì cha mẹ Dương phu nhân gả bàcho Dương Đính Thiên. Tuy Dương phu nhân và Dương Đính Thiên là vợ chồng nhưngDương phu nhân ngày đêm vẫn hằng tơ tưởng đến người yêu cũ là Thành Côn. TrênQuang Minh đỉnh có một đường hầm bí mật chỉ có giáo chủ Minh Giáo mới được vào,Dương phu nhân biết đường hầm này, lén cho Thành Côn biết, cả hai cùng vào đườnghầm bí mật tình tự, không ngờ rằng đây cũng là nơi Dương Đính Thiên thường haylui tới để luyện tập võ công.

Trong một lần Dương Đính Thiên đang luyện công đếnbước quan trọng thì Dương phu nhân lại dẫn Thành Côn đến, Dương Đính Thiên pháthiện ra hai người nên khí huyết trào ngược, tẩu hỏa nhập ma mà chết. Dương phunhân thấy tình cảnh ấy, vì hối hận nên tự sát theo. Thành Côn từ đó thù hậnMinh Giáo và lập lời thề tiêu diệt toàn bộ Minh Giáo. Thành Côn nhận Tạ Tốn làmđồ đệ, y khởi đầu âm mưu tiêu diệt Minh giáo bằng cách lợi dụng Tạ Tốn để làmcho Minh giáo bất hòa với võ lâm. Y giả vờ uống rượu say rồi hãm hiếp vợ của TạTốn, sau lại giết chết cả nhà của đồ đệ mình rồi trốn biệt tích. Qua câu chuyệncủa hai nhân vật trên, ta thấy đâu là thiện, đâu là ác? Trong cái thiện có caíác cũng như cái ác có thể là bắt nguồn từ cái thiện. “Sắc không chung ở mộtnhà/ Không chẳng khác sắc sắc nào khác không” là vậy.

Tinh thần Sắc-Không của kinh Bát-nhã còn đượcthể hiện trong tác phẩm Kim Dung ở chỗ không rạch ròi giữa chánh phái và tàphái. Có những người tự xưng là danh môn chánh phái nhưng tâm lại tà dại, mưumô xảo huyệt, tàn bạo ác độc và đầy tham vọng quyền lực; trong khi đó có nhữngngười tuy bị cho là thuộc tà giáo nhưng lại sống hết sức chân tình và nghĩakhí. Cho nên không thể dựa vào tên gọi mà cho đó là quân tử hay tiểu nhân.Trong chánh có tà, trong quân tử có tiểu nhân và ngược lại.

Tinh thần Sắc-Khôngcó lẽ được thể hiện cô động qua bản đàn Tiếu ngạo giang hồ do Lưu ChínhPhong và Khúc Dương kết hợp sáng tác. Lưu Chính Phong thuộc phái Hành Sơn trongkhi Khúc Dương thuộc Nhật Nguyệt Thần Giáo. Hai người kết bạn với nhau vì cùngniềm đam mê âm nhạc, bất chấp một người là cao thủ kiếm thuật của võ lâm chánhphái và người kia là trưởng lão của ma giáo. Khúc Tiếu ngạo giang hồ vôcùng bi tráng, là bản nhạc cầm tiêu hợp tấu tuyệt đỉnh, vừa mô tả những đâmchém đau thương trên giang hồ, nhưng cũng lại mang tấm lòng khoáng đạt của nhữngcon người yêu tự do và mong ước hòa bình cho giang hồ.

Theo phiên bản cũ trướckhi Kim Dung sửa đổi, Khúc Dương và Lưu Chính Phong đã đi đào các ngôi mộ cổ đểtìm khúc Quảng lăng của Kê Khang đã bị thất truyền, sau đó dựa trên khúcphổ này để sáng tác nên khúc Tiếu ngạo giang hồ. Kê Khang là một trongTrúc lâm thất hiền đầu thời nhà Tấn. Nhóm này gồm 7 học giả chán thói đời giantrá và quan trường hèn hạ trong triều đình mà chủ trương sống ẩn dật, tiêu daotự tại, đàn hát uống rượu vui vẻ. Khúc Quảng lăng do Kê Khang sáng tác,khi đánh lên nghe lưu loát, thanh thoát như nước chảy (lưu thủy), mây bay (hànhvân).

Trong Đoạn trường tân thanh của thi hào Nguyễn Du, đoạn tả tiếngđàn của Thúy Kiều khi nàng gảy cho Kim Trọng nghe buổi sơ ngộ cũng có câu: “KêKhang này khúc Quảng Lăng/ Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân”. Vậy đó,muốn tìm ra chân tướng của sự vật đâu phải dễ. Dân gian ta có câu nói tuy bìnhdị nhưng rất hay là, “Thấy vậy chứ không phải vậy”. Những gì biểu hiện ra ngoàichưa hẳn là bản chất thật của sự vật, sự việc. Muốn hiểu thấu chân lý thì cầnphải có cái nhìn vượt qua vẻ bề ngoài của chúng, vượt lên nguyên lý nhị nguyêncủa thiện ác, chánh tà. Khúc Tiếu ngạo giang hồ phải chăng là kết tinh củakhát vọng tự do phiêu bồng ấy. Khúc nhạc ấy có khác gì với lời Đức Phật dạytrong kinh Kim cang:

Nhược dĩ sắckiến ngã

Dĩ âm thanhcầu ngã

Thị nhơnhành tà đạo

Bất năng kiếnNhư Lai.

Tinh thần Sắc-Không cũng giúp ta có cái nhìn thôngthoáng, uyển chuyển, tránh được sự cứng nhắc và cố chấp trong khi đối nhân tiếpvật và cách xử lý các vấn đề trong cuộc sống. Trong Nam hoa kinh có kểcâu chuyện như sau. Một hôm Huệ Thi tìm đến Trang Tử bảo: Ngụy vương cho tôi mộthạt bầu của giống lớn, tôi bèn trồng nó, đến khi ra hoa kết trái, kết ra một quảbầu rất to, đầy đặn, lớn đến năm thạch (1 thạch = 100 lít). Vì quả bầu lớn quánên chẳng có ích gì. Nếu bổ đôi nó làm gáo múc nước thì vỏ bầu quá mỏng, múc nướcvào nhấc lên sẽ vỡ. Dùng nó để đựng thức gì cũng không được. Nghĩ đi nghĩ lại,quả bầu này tuy to nhưng vô dụng, nên tôi đã đập nát nó.

Trang Tử nói:Thầy đúng là không biết cách dùng đồ vật lớn! Sao thầy lại cho là nó chỉ có thểbổ ra làm gáo? Nếu nó là một quả bầu lớn hoàn chỉnh, sao thầy không dùng dây buộclên thân nó mà du ngoạn khắp giang hồ? Chẳng lẽ mỗi một đồ vật cứ phải được giacông thành một sản phẩm theo quy định nào đó thì mới là hữu dụng?

Câu chuyện đãminh họa rất đúng tinh thần sắc bất dị không của kinh Bát-nhã. Huệ Thilà người chấp sắc là sắc, không là không, cho nên ông đã không biết uyển chuyểntheo hoàn cảnh. Ông hiểu một cách cứng nhắc rằng hễ là quả bầu thì phải làm gáomúc nước. Nhưng Trang Tử thì khác. Trang Tử không bảo thủ như vậy mà vận dụng mộtcách linh hoạt. Bầu không nhất thiết phải làm gáo múc nước mà có thể làm bất cứcái gì tùy theo chất lượng của quả bầu và nhu cầu của con người. Đó chính làtinh thần sắc tức thị không, không tức thị sắc vậy.

Mạnh Tử có câu nói rất hayrằng: “Tận tín thư bất như vô thư”. Quá tin vào sách không bằng không biết tơísách. Vì người quá tin vào sách thì lúc nào cũng lấy sách ra làm tiêu chuẩn,như vậy sẽ làm mất đi sự sáng tạo của bản thân. Đọc sách là để tham khảo kinhnghiệm của người khác để ứng dụng vào hoàn cảnh thực tế của mình ở hiện tại. Nêúnhư sách nói cái gì ta làm y như vậy thì chi bằngkhông đọc sách, cứ để cho tâm hồn thông thoáng, dùng “trí vô sư” để tiếp nhân ứngvật còn hiệu quả hơn nhiều. Cùng ý này, văn hào Goethe người Đức có câu: “Mọilý thuyết đều là màu xám, chỉ cây đời là mãi mãi xanh tươi”.

Bà-la-môn giáochia xã hội Ấn Độ ra làm bốn giai cấp. Mỗi giai cấp giữ một nghề khác nhau.Giai cấp này không được làm nghề của giai cấp khác. Đó là vì họ chưa học kinh Bát-nhã.Nếu họ đã học kinh Bát-nhã rồi thì họ sẽ không phân biệt như vậy. Bơỉvì khi họ đã biết “Sắc bất dị Không” thì họ cũng sẽ hiểu rằng “giai cấp này khôngkhác với giai cấp kia”. Ví dụ chúng ta cho nghề nhà giáo là cao sang còn nghềcông nhân là thấp kém. Nhưng muốn hành được nghề nhà giáo thì người đó phải cầnđến phấn, bảng, tập, viết… do những người công nhân làm ra. Nhiều thứ và nhiêùthứ khác nữa. Bồ-tát Quán Thế Âm (Quán Tự Tại) do hiểu được Bát-nhã, hiểu đượcnguyên lý Sắc và Không cho nên ngài mới có thể ứng hiện 32 tướng để giáo hoáchúng sinh tùy theo hoàn cảnh của họ.

Người nào cần cao sang để hóa độ thì Ngàihiện cao sang, người nào cần hạ tiện để hóa độ thì Ngài hiện hạ tiện đề dìu dắt.Cao sang hay hạ tiện không hề cố định mà chỉ là những biểu hiện khác nhau củatâm từ bi mà thôi. Cao sang tức là hạ tiện, hạ tiện cũng tức là cao sang. Bơỉvì cùng hướng về một mục đích vậy. Nguyễn Công Trứ đã nói về cách sống của ôngrằng: Lúc làm Đại tướng tôi không lấy làm vinh, thì nay làm tên lính tôi cũngkhông lấy làm nhục. Người ta ở địa vì nào, có nghĩa vụ đối với địa vị ấy. Ôngquả thật đã hiểu được lẽ sắc-không ở đời rồi vậy.

Nhờ ứng dụng tinh thần Sắc-Không này mà các nhà sưPhật giáo đã đi vào đời, sống và phục vụ đời một cách hiệu quả. Những nhà Nhomà câu nệ vào giáo điều quá thì người ta gọi họ là hủ nho, tức nhà Nho cố chấp,hẹp hòi, không thức thời, và sẽ bị thời đại đào thải. Cho nên họ không chỉkhông có đóng góp thiết thực cho xã hội mà còn kìm hãm bước tiến của thời đại.Nhưng các nhà sư Phật giáo thì khác. Họ có cái nhìn khoáng đạt và thiết thựchơn. Họ không câu nệ vào giáo điều mà chỉ cần có lợi ích cho xã hội, cho sốđông là họ làm. Cho nên các nhà sư Phật không có quan niệm phải trung thành vơímột vị vua hay triều đại nào đó như các nhà Nho (hủ Nho).

Tinh thần phục vụ củaPhật giáo có lẽ giống như cách làm của Nguyễn Trãi, “Việc nhân nghĩa cốt ở yêndân”. Mà cũng chính nhờ tinh thần vô chấp như vậy mà các vị Thiền sư nước tatrong giai đoạn dựng nước và giữ nước mới có những đóng góp cho nền độc lập vàphát triển rực rỡ của dân tộc. Những Thiền sư như Khuông Việt, Vạn Hạnh, Đỗ Thuận…đều là những Thiền sư như thế. Nếu họ chỉ trung thành với “vua của mình” thìlàm sao họ có thể phục vụ dân tộc một cách trọn vẹn cho được.

Những dẫn chững trên đây chỉ là vài ví dụ ít ỏi. Sưự́ng dụng của tinh thần“Sắctức thị Không”là bao la vô hạn.Chỉ có thể nói rằng,“Xanhxanh trúc biếc thảy là Pháp thân/ Rỡ rỡ hoa vàng đều là Bát-nhã”. Xin khép lại bài viết.

Thích Trung Hữu

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn//nguyetsan/vanhoa/2019/07/03/5af683/