Số phận của 'người thú nhận' trong vụ máy bay của CIA bị Sandinista bắn hạ

Chuyên đề ANTG đã viết về bàn tay của CIA trong chiến lược viện trợ cho Contra, một lực lượng chống Sandinista ở Nicaragua. Bí mật này chỉ được hé lộ qua lời khai của người duy nhất sống sót trên chiếc máy bay quân sự bị quân đội Sandinista bắn hạ ngày 5-10-1986. Bài viết dưới đây là sự tiếp nối của sự kiện này về số phận của Hasenfus, người tung ra bí mật chấn động nói trên.

Những lời thú nhận

2 giờ chiều ngày 5-10-1986, tại một sân bay bí mật của CIA ở ngoại ô thành phố Miami, bang Florida, Mỹ, một chiếc máy bay vận tải Fairchild C-123 của Hãng vận tải hàng không Phương Nam, số hiệu N4410F lăn bánh ra đường băng.

Một người lính Sandinista với khẩu tên lửa vác vai 9K32 Strela-2.

Trên máy bay có 50 quả tên lửa phòng không vác vai Redeye, 5.000 súng AK-47, 100.000 viên đạn, 2.600 quả lựu đạn, 150 đôi giày đi rừng và các thiết bị quân sự khác. Tất cả những vũ khí ấy được CIA cung cấp cho phe Contra để chống lại lực lượng Sandinista vốn đang cầm quyền ở Nicaragua …

Sau gần hai tiếng rưỡi bay ở độ cao 3.000m, chiếc Fairchild C-123 đã đến khu vực tỉnh Rio San Juan, biên giới giữa Costa Rica và Nicaragua, nơi đặt đại bản doanh của Contra. Eugene Hasenfus, cựu lính Thủy quân lục chiến Mỹ phụ trách thả dù nhớ lại: “Lúc nhân viên truyền tin người Nicaragua báo cho phi công William J. Cooper biết là anh ta đã liên lạc được với mặt đất, và điểm thả dù vũ khí được đánh dấu bằng 3 tấm vải màu vàng rất lớn thì cũng là lúc tôi nhìn thấy tín hiệu này.

Trong khi William J. Cooper cho máy bay vòng lại còn phi công phụ Wallace "Buzz" Sawyer chuẩn bị mở cửa khoang bụng, tôi đi xuống phía sau. Nhưng mới bước được vài bước, tôi thấy một quầng lửa sáng rực bùng lên ở cánh trái kèm theo đó là tiếng nổ dữ dội. Chỉ trong tích tắc, tôi biết máy bay đã trúng tên lửa của Sandinista”.

Người bắn rơi chiếc Fairchild C-123 là Jose Fernando Canales Aleman, một trung sĩ quân đội Sandinista. Aleman kể: “Nó bay rất thấp và không có bất kỳ một đèn hiệu nào. Khẩu tên lửa phòng không vác vai 9K32 Strela-2 do Liên Xô chế tạo lại được dẫn đường bằng tia hồng ngoại nên tôi đã bắn trúng”.

Chiếc Fairchild C-123 lao xuống đất theo hình xoắn ốc rồi vỡ thành nhiều mảnh. Hai phi công William J. Cooper, Wallace “Buzz” Sawyer và nhân viên truyền tin Freddy Vilches chết ngay lập tức. Riêng Hasenfus, nhờ chiếc dù đeo trên lưng, ông ta tiếp đất an toàn, chỉ bị vài vết thương nhẹ ngoài da. Sau này Hasenfus kể lại: “Vì đã ngụy trang là máy bay dân sự nên phi hành đoàn không ai mang dù. Riêng tôi, rút kinh nghiệm trong những năm bay cho Air America ở Việt Nam và Lào, tôi ôm theo chiếc dù nên đã thoát chết”.

Với gói dụng cụ mưu sinh thoát hiểm, Hasenfus chạy về phía những rặng núi phân chia biên giới Nicaragua, Costa Rica với hy vọng sẽ gặp được người của Contra. Ông kể: “Đêm hôm ấy, tôi dùng chiếc dù làm võng. Gần sáng, lúc vẫn còn đang chập chờn trong giấc ngủ thì có nhiều ánh đèn pin chiếu thẳng vào chỗ tôi nằm rồi những giọng nói cả bằng tiếng Anh lẫn tiếng Tây Ban Nha vang lên: “Gián điệp Mỹ, mày đã bị bắt”.

Tiến hành hỏi cung Hasenfus, nhân viên điều tra của Sandinista nhận được câu trả lời là trước khi làm nhiệm vụ thả dù vũ khí cho phe Contra, từ năm 1968 đến 1973, ông ta là nhân viên của hãng Air America, chuyên thực hiện những phi vụ bí mật cho CIA ở Việt Nam, Lào.

Vẫn theo lời khai của Hasenfus, sau khi giải ngũ, một đồng nghiệp ở Air America mời ông ta tham gia một công tác đặc biệt ở El Salvador với mức lương 3.000USD/tháng, cộng với khoản tiền thưởng 750USD cho mỗi chuyến bay xâm nhập lãnh thổ Nicaragua.

Biên bản thẩm vấn Hasenfus được Sandinista công bố trước tòa cho thấy dưới sự chỉ đạo của tướng Richard Secord, Hasenfus đã bay từ El Salvador đến Nicaragua hơn 10 lần để thả dù tiếp tế cho phía Contra tại những khu vực do Contra kiểm soát, và chuyến bay đến Nicaragua lần này nằm dưới sự điều hành trực tiếp của CIA.

Bên cạnh đó, Hasenfus cũng khai ra những nhân viên CIA mà ông ta biết, chẳng hạn như đại tá James J. Steele, hoạt động tại căn cứ không quân Ilopango ở El Salvador, hay như Max Gomez và Ramon, người Mỹ gốc Cuba - là những cá nhân đã tổ chức các đường dây bí mật, vận chuyển vũ khí cung cấp cho Contra. Chưa hết, tài liệu mà Sandinista tìm thấy trên thi thể của phi công đã chết Wallace “Buzz” Sawyer, cho thấy có sự liên hệ giữa phi công này và trung tá Oliver North, người cầm đầu vụ Iran-Contra.

Những lời khai của Hasenfus đã gây ra cơn địa chấn trong chính trường nước Mỹ, đồng thời nó cũng chứng minh cụ thể về mối liên hệ giữa Contra, Chính phủ Mỹ và Tổng thống Reagan bởi lẽ vào năm 1984, trước những tố cáo về nạn tham nhũng và sự tàn bạo của lực lượng Contra với thường dân Nicaragua, Quốc hội Mỹ đã thông qua Điều luật sửa đổi Boland (Boland Amendment), trong đó đặc biệt ngăn cấm CIA hoặc bất kỳ cơ quan nào khác của Chính phủ Mỹ hỗ trợ cho Contra.

Dưới áp lực của quốc hội, Tổng thống Ronald Reagan phải miễn cưỡng ký vào điều luật này. Bây giờ, nếu những lời khai của Hasenfus là sự thật thì chính quyền Reagan và CIA đã vi phạm luật pháp Mỹ trong lúc cả Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng lẫn CIA đều nhất mực cho rằng. họ không hề biết gì, cũng như không liên quan gì với chiếc máy bay bị Sandinista bắn rơi, với Hasenfus và với những việc ông ta đã làm.

Chiếc Fairchild C-123 ở El Salvado trước khi bị Sandinista bắn rơi.

Thiếu tướng John Singlaub, người từng chỉ huy những phi vụ thả dù biệt kích Anh, Mỹ vào phía sau phòng tuyến của quân đội Phát xít Nhật trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2 ở Myanmar, và cũng là người đã từng tổ chức những đội thám báo Mike Force hoạt động chống lại Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1965 đến 1968, nhận định: “Chỉ có những kẻ ngốc mới đưa chiếc Fairchild C-123 vào hoạt động bí mật ngay giữa ban ngày. Vấn đề càng tồi tệ hơn khi người Sandinista tìm thấy những thẻ căn cước và cuốn nhật ký bay trên 3 xác chết, chứng minh sự liên kết giữa họ với Hãng vận tải hàng không Phương Nam - Southern Air Transport - một hãng mà ai cũng biết là do CIA chỉ huy, điều khiển”.

Vụ Sandinista bắn rơi chiếc máy bay của CIA chở vũ khí tiếp tế cho phe Contra đã khiến hồ sơ “sự cố” Iran-Contra được Quốc hội Mỹ mở ra thêm một lần nữa. Theo đó, khi 7 công dân Mỹ bị tổ chức Hezbollah bắt làm con tin ở Liban trong lúc Iran dù đang bị Mỹ cấm vận, nhưng họ vẫn muốn mua vũ khí của Mỹ.

Xem đây là cơ hội để giải thoát 7 con tin vì Hezbollah từ lâu vốn được sự hậu thuẫn của Iran, Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ chỉ đạo trung tá Oliver North thành lập một nhóm hành động mang tên The Enterprise. Theo kế hoạch của Oliver North, thông qua quốc gia đồng minh là Israel, nhóm The Enterprise giao vũ khí cho Israel để nơi này bán cho Iran rồi thu tiền. Một phần của số tiền này được dùng để tài trợ cho phe Contra. Đổi lại, Iran sẽ dàn xếp với Hezbollah, thả 7 con tin người Mỹ.

Những bằng chứng do Quốc hội Mỹ thu thập được cho thấy với sự đồng ý của Tổng thống Reagan, Mỹ đã bán tên lửa phòng không Hawk và tên lửa chống xe tăng TOW cho Iran, đồng thời Reagan cũng chấp thuận để trung tá Oliver North và nhóm The Enterprise chuyển số tiền thu được từ việc bán vũ khí cho phe Contra. Khi các con tin được Hezbollah phóng thích, tổng cộng Iran đã nhận 2.100 tên lửa Hawk và TOW cùng khoảng 500 bộ linh kiện từ The Enterprise.

Họa vô đơn chí

Ngày 15-11-1986, Sandinista đưa cựu binh Thủy quân lục chiến Mỹ Eugene Hasenfus ra tòa về tội khủng bố, âm mưu đồng lõa bạo loạn, lật đổ chính quyền, xâm phạm không phận và vận chuyển vũ khí vào Nicaragua bất hợp pháp với bản án 30 năm tù giam.

Eugene Hasenfus cùng tang vật được Sandinista đưa ra trình diện báo chí.

Ngay lập tức, vợ ông ta là Sally đã gửi một bản thỉnh nguyện thư đến Tổng thống Nicaragua Daniel Ortega để xin ân xá cho chồng. Đáp lại lời cầu xin này, Bộ trưởng Quốc phòng Nicaragua Humberto Ortega tuyên bố: “Bản án không nhằm vào Hasenfus, mà cái đích của nó là những chính sách bất công, vô lý của Chính phủ Mỹ với Nicaragua”.

Tuy nhiên, chỉ hơn 1 tháng sau đó, bằng sự vận động của Thượng nghị sĩ Mỹ là ông Christopher Dodd, ngày 17-2-1986, Hasenfus được chính phủ Nicaragua ân xá. Mặc dù may mắn sống sót khi chiếc Fairchild C 123 bị bắn rơi nhưng số phận cay đắng vẫn tiếp tục đổ lên đầu Hasenfus.

Trở về Mỹ gần ngày lễ Giáng sinh với người vợ cùng 3 đứa con ở thành phố Marinette, Hasenfus phải đối mặt với những lời chỉ trích lẫn châm biếm vì lúc ấy, công chúng Mỹ ít nhiều đã biết về vụ Iran-Contra. Trả lời một số tờ báo, cha của Hasenfus cho rằng “sẽ tốt hơn nhiều nếu nó (Hasenfus) chết vì người chết không nói”.

Theo nguyên tắc, Hasenfus sẽ được hưởng tiền bồi thường do phải gánh chịu những thiệt hại về thể xác và tâm lý trong khi thi hành công vụ nhưng Chính phủ Mỹ từ chối mọi khoản chi trả cho Hasenfus vì cho rằng ông ta không phải là người của bất kỳ một cơ quan nào trực thuộc chính phủ.

Chưa hết, ngân hàng tiến hành tịch thu căn nhà, là tài sản mà vợ ông ta đã thế chấp để lấy tiền nuôi con trong thời gian Hasenfus bị bắt ở Nicaragua. Gửi đơn kiện Công ty vận tải hàng không Phương Nam vì khi bị Sandinista bắt, Hasenfus đang bay cho hãng này nhưng ông ta chỉ nhận được những lời hứa bằng miệng, còn đơn kiện thì mất hút tại tòa án Miami.

Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí, năm 1998, vợ Hasenfus ly dị ông ta. Tháng 7-2000, ông ta bị cáo buộc là đã có những “hành vi không đứng đắn” ở nơi công cộng thuộc hạt Brookfield, bang Wisconsin. Ngày 1-6-2002, Hasenfus giết chết một con gấu dù không có giấy phép săn bắn nên bị phạt 260USD. Đến tháng 2-2003, tại bãi đậu xe thuộc cửa hàng tạp hóa Woodman ở hạt Howard, Wisconsin, Hasenfus lại bị phạt vì tội “cố ý khiêu dâm nơi công cộng”, và phải nhận lệnh quản chế.

Ngày 25-3-2005, khi đi vào bãi đỗ xe của siêu thị Wal-Mart ở hạt Marinette, bang Wisconsin, một lần nữa Hasenfus lại có những hành vi “cố ý khiêu dâm nơi công cộng”. Điều này đã vi phạm lệnh quản chế nên ông ta bị đưa vào nhà giam Green Bay, Wisconsin. Ngày 17-12-2005, Hasenfus được tha. Đây cũng chính là ngày mà 19 năm về trước, Sandinista đã phóng thích ông ta, cho về Mỹ.

Hiện tại, Hasenfus vẫn sống trong nghèo khổ ở hạt Marinette, bang Wisconsin. Trả lời nhà báo Blades của tờ Wisconsin Daily, ông ta cay đắng: “Họ (ý nói CIA) đã bỏ rơi tôi. Ngay cả những người đã từng kề vai sát cánh với tôi trong những phi vụ thả dù vũ khí cho Contra thì bây giờ mỗi lần gặp tôi, họ lại vờ đi như chưa từng quen biết…”.

Cao Trí (theo History)

Nguồn ANTG: http://antg.cand.com.vn/ho-so-mat/viet-tiep-ve-vu-may-bay-cua-cia-bi-sandinista-ban-ha-so-phan-cua-nguoi-thu-nhan-462945/