Nhớ vị chè xanh của nội

Cái ấm tích hãm chè xanh của nội cũ mèm, sợi len đỏ buộc nắp vào quai để tránh rơi vỡ đã chuyển màu đen, chi chít vết rạn nứt ẩn dưới lớp men ngà vàng bởi thời gian. Cái ấm ấy bằng tuổi tôi, bởi khi tôi ra đời cũng là lúc ông nội mang chiếc ấm từ xứ gốm Bát Tràng về sau lần nghỉ phép dài ngày để thỏa cái thú vui chè xanh của ông, bà.

Minh họa: Ngọc Minh

Hễ ai sinh ra từ làng Chè quê tôi hầu hết đều biết hãm chè và biết thưởng thức chè xanh từ khi còn nhỏ tuổi. Lá cây chè trồng trên núi làng Chè ấy vừa dày vừa thơm nổi tiếng khắp một vùng, bởi vậy người dân làng tôi còn hái chè để mang xuống chợ Già bán và nhập cho lái buôn.

Nội bảo, chè xanh hãm với nước giếng Nam thì khỏi phải chê, nước màu xanh, ngọt ở hậu vị, thơm từ đầu đến cuối. Nội cũng thường hãm chè xanh bằng nước mưa. Nước mưa nhà tôi được tích trữ ở cái lu đặt cạnh gốc cây cau trong văn vắt. Chè xanh được hãm bằng nước mưa ngon không kém hương vị của nước giếng Nam.

Hãm chè cũng thật kỳ công, để có ấm chè xanh ngon, tôi thấy nội rất cẩn thận nhặt bỏ những chiếc lá sâu, lá úa vàng, chỉ dùng lá bánh tẻ. Nội ước lượng chè cho một ấm, rồi đem rửa vài ba lần cho thật sạch bụi, để ráo nước, vò nhẹ lá chè, bỏ vào ấm tích xong rót nước đang sôi trên bếp vào tráng ngập 1 lượt rồi đổ đi, sau đó cho nước lần 2 vào ấm tích và ủ trong chiếc giỏ nệm rơm. Khoảng chừng một tiếng đồng hồ là sẽ được một ấm nước chè xanh ngon tuyệt hảo. Những hôm trời nắng nóng, khát khô cổ họng chỉ cần nghĩ tới cốc nước chè xanh nội hãm thôi là đã thấy thèm thuồng khó cưỡng. Bã chè xanh, còn được nội vò ra rồi hòa lẫn vào chậu nước để tắm cho lũ trẻ. Nội nói chè xanh rất tốt, tắm vậy da sẽ mịn màng và không bị nổi mẩn ngứa.

Hồi ấy, mỗi buổi sáng mai, hàng xóm thường qua nhà nhau chơi. Nội tôi nghèo tiền bạc nhưng lại giàu tình cảm. Món “thết đãi” mọi người của nội thường là lá trầu, cau tươi và ấm nước chè xanh. Bên ấm chè, bao câu chuyện đời, chuyện người, chuyện con cháu tất bật làm lụng quanh năm suốt tháng chả mấy khi về làng; chuyện câu lạc bộ người cao tuổi của xóm số thành viên ngày càng vơi; chuyện có người phải rời quê theo con cháu lên phố thị rồi lại trở về quê trong chốc lát bởi không quen môi trường sống… Thậm chí cả chuyện bà bán nước chè xanh dạo ngoài chợ dù già vẫn nuôi đến ba người con ăn học thành tài.

Ngồi bên nội, chả bao giờ hết chuyện. Từ việc đi lao động cộng sản, đi đắp đê luôn luôn phải cử người trong đội nấu nước chè xanh, luộc khoai lang, rồi cả chuyện bố mẹ tôi cưới nhau hồi đó chỉ nước chè xanh, thuốc lá bông sen, trầu cau và vài gói kẹo lạc… Việc hiếu, việc hỉ nào thì đầu tiên phải chuẩn bị sẵn một nồi quân dụng to cỡ ba, bốn mươi lít để nấu nước chè xanh. Có chè xanh mới “rạng” câu chuyện.

Dân làng Chè quê tôi giờ không còn trồng chè tươi nữa. Hội hè đình đám chỉ dùng chè khô, vài gói chè thanh nhiệt hay chỉ đơn giản là vài chiếc lá vối vị chan chát làm màu cho nước.

Tiện thì tiện thật nhưng sao cứ thấy thiếu vị ngọt chát, thiếu những lời tâm tình sẻ chia với nhau. Thiếu bát nước chè xanh, hình như chuyện nào cũng khô không khốc...

Tản văn của Hà Hiếu

Nguồn Thanh Hóa: https://vhds.baothanhhoa.vn/van-hoc-nghe-thuat/nho-vi-che-xanh-cua-noi/27780.htm