Nguyên tắc suy đoán vô tội là gì?

Từ vụ án chuyến bay giải cứu đang được Tòa án Nhân dân TP Hà Nội xét xử, dư luận quan tâm đến nguyên tắc suy đoán vô tội.

Trao đổi với PV Tri thức và Cuộc sống, Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng văn phòng luật sư Chính Pháp cho biết, suy đoán vô tội là nguyên tắc cơ bản trong tố tụng văn minh, nguyên tắc này là thành tựu tiến bộ của nền văn minh nhân loại trong tố tụng hình sự, khiến cho cơ quan tiến hành tố tụng thận trọng, khách quan quan hơn trong việc thu thập và đánh giá chứng cứ để buộc tội đối với người phạm tội.

Bởi vậy, hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều vận dụng nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự như một nguyên tắc cơ bản để hướng đến việc giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, công bằng.

Các bị cáo vụ chuyến bay giải cứu.

Cội nguồn của nguyên tắc này từ thời La Mã cổ đại khi Hoàng đế Justinian (thế kỷ VI TCN) ban hành một bản tóm lược Luật La Mã, trong đó có quy định về nguyên tắc chung liên quan đến chứng minh thuộc về bên tố tụng (dân sự). Theo đó, trách nhiệm chứng minh thuộc về bên tố cáo và người nào đi kiện, người đó chứng minh trước. Sau đó, các triều đại La Mã đã áp ụng nguyên tắc này trong quá trình xét xử hình sự và bắt đầu khẳng định nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên buộc tội và một hệ quả tất yếu là bị cáo luôn được coi là vô tội.

Suy đoán vô tội là đòi hỏi pháp lý, yêu cầu hướng đến sự công bằng, lẽ phải đã được các luật gia, các chính trị gia nhắc đến từ lâu, tuy nhiên nó chỉ thực sự trở thành nguyên tắc khi có dấu ấn của luật gia người Pháp Jean Lemonie khi ông đưa ra quan điểm mang tính pháp lý rằng hầu hết mọi người không phải là tội phạm, yêu cầu và trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan công quyền. Sau này, quan điểm về suy đoán vô tội được nhiều người thừa nhận, được luật hóa trở thành những nguyên tắc trong tố tụng hình sự ở nhiều quốc gia.

Tại Việt Nam, Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, lần đầu tiên quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội như sau:

“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.".

Nguyên tắc suy đoán vô tội là nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay, nguyên tắc này không chỉ thể hiện qua Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự mà còn là tư tưởng xuyên suốt trong quá trình thực hiện các thủ tục tố tụng hình sự, đối với việc thu thập chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự. Điều 15 quy định về chứng minh, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án cũng nêu rõ: Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.

Nguyên tắc suy đoán vô tội xuất phát từ chính sách pháp luật hình sự ở Việt Nam đã có những thay đổi trong thời gian gần đây. Từ những thay đổi trong chính sách, Khoản 1, Điều 31, Hiến pháp 2013 cũng quy định: "Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" . Như vậy, pháp luật tố tụng về hình sự Việt Nam hiện nay đã coi nguyên tắc suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, là kim chỉ nam trong việc chứng minh tội phạm.

Nguyên tắc suy đoán vô tội đặt ra những đòi hỏi mà tố tụng hình sự phải đảm bảo đó là: Không ai có thể bị coi là có tội khi tội phạm do họ thực hiện chưa được cơ quan tiến hành tố tụng (Nhà nước) chứng minh theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và chưa được xác định bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

Tiến sĩ, luật sư Đặng Văn Cường.

Nguyên tắc suy đoán vô tội cũng yêu cầu phải có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Người bị tình nghi, bị can, bị cáo được coi là không có tội cho đến khi có bản án có hiệu lực của tòa án kết tội đối với người đó. Quy định này rất tiến bộ, sẽ mang đến cái nhìn khách quan cho những người tiến hành tố tụng khi thực hiện các hoạt động tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, tránh những định kiến, suy luận chủ quan thiếu căn cứ đối với người bị buộc tội.

Để đảm bảo cho nguyên tắc suy đoán vô tội được thực hiện trên thực tế thì pháp luật về tố tụng hình sự Việt Nam cũng quy định: Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình và các hình thức trái pháp luật khác trong các quy trình thu nhập chứng cứ và thực hiện các hoạt động tố tụng khác. Lời nhận tội của bị can, bị cáo không được coi là căn cứ duy nhất để kết tội. Lời nhận tội chỉ được coi là chứng cứ nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án;

Bản án kết tội phải dựa trên các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, chứng minh bị cáo có tội. Kết quả giải quyết vụ án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa chứ không chỉ dựa vào kết quả điều tra, truy tố của bên buộc tội. Nguyên tắc suy đoán vô tội gắn liền với nguyên tắc về chứng minh, nguyên tắc về tranh tụng trở thành những kim chỉ nam định hướng cho hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam.

Việc suy luận trong tố tụng hình sự phải dựa trên nguyên tắc là theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo chứ không được phép suy luận theo hướng bất lợi. Khi có những nghi ngờ về pháp luật (về lỗi của bị can, bị cáo) và chứng cứ xuất hiện nếu không chứng minh làm rõ được thì những nghi ngờ này được hiểu và giải thích theo hướng có lợi cho người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.

Mục đích của tố tụng hình sự là tội phạm phải được phát hiện và xử lý theo quy định của pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.

Tuy nhiên, để không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm thì việc chứng minh tội phạm đòi hỏi phải thận trọng, khách quan của những người tiến hành tố tụng và phải dựa trên khoa học pháp lý. Nếu không tuân thủ nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng, nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự thì vụ án có thể được đẩy theo hướng buộc tội chủ quan, theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng, dễ dẫn đến oan sai, bỏ lọt tội phạm.

Nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định, vận dụng trong tố tụng hình sự sẽ mang lại nhiều ý nghĩa. Ghi nhận và tuân thủ nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ làm cho việc chứng minh tội phạm trở nên khách quan, việc giải quyết vụ án hình sự sẽ đảm bảo công bằng, việc chứng minh tội phạm trên cơ sở các chứng cứ khách quan, dựa vào khoa học pháp lý chứ không chỉ dựa vào ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng, sẽ đảm bảo được các quyền cơ bản của bị cáo, đảm bảo được quyền con người, quyền công dân theo quy định của pháp luật.

Mời độc giả xem thêm video Vụ “chuyến bay giải cứu”: Các bị cáo đã nhận tiền tinh vi ra sao?

Hải Ninh

Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống: https://kienthuc.net.vn/xa-hoi/nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-la-gi-1881695.html