Nâng cao chuỗi giá trị rừng nguyên liệu

Nâng cao chuỗi giá trị rừng nguyên liệu là giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gỗ bền vững, nâng cao thu nhập của bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Tạo công ăn việc làm cho hơn 2 triệu nông dân

Theo thống kê của Cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), diện tích rừng hiện nay của Việt Nam khoảng 14,74 triệu ha, trong đó rừng trồng chiếm 4,57 triệu ha (31%), rừng tự nhiên chiếm 10,17 triệu ha (69%).

Nhiều năm nay, tỉnh Nghệ An khuyến khích người dân tham gia trồng rừng gỗ lớn

Ông Vũ Thành Nam - Trưởng phòng Sử dụng rừng, Cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, trong thời gian qua, diện tích rừng của chúng ta tăng lên rất nhanh, để đạt được kết quả này là nhờ tổng hợp các giải pháp tổng thể của Chính phủ, Trung ương, chính quyền địa phương, đến người dân, góp phần đạt độ che phủ rừng. Trong đó, thực hiện việc giao đất giao rừng rất hiệu quả, rừng không những có chủ, mà còn tạo điều kiện cho người dân trồng rừng tiêu thụ được sản phẩm do mình trồng, góp phần nâng độ che phủ rừng đạt mục tiêu đề ra.

Cùng với đó là các chính sách về môi trường rừng, trồng mới 5 triệu ha rừng, lâm nghiệp bền vững 5 năm… Tất cả các chính sách này đều góp phần đẩy nhanh tốc độ trồng rừng, tiêu thụ gỗ rừng trồng đến nay đã đạt 2 triệu khối gỗ rừng trồng được tiêu thụ, cung cấp nguyên liệu gỗ cho xuất khẩu hiệu quả.

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Văn Diện - Trưởng phòng Thông tin và Chuyển đổi số, Cục Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, diện tích rừng trồng tăng 5 - 5,5% hàng năm, độ che phủ đạt chỉ tiêu mà Chính phủ, Quốc hội đề ra, tạo công ăn việc làm cho hơn 2 triệu nông dân. Rừng trồng chính là nguồn cung cấp chính cho công nghiệp chế biến gỗ và xuất khẩu.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng đã có nhiều giải pháp căn cơ, những cơ chế chính sách, tạo động lực cho các thành phần kinh tế phát triển nhờ trồng rừng.

Cụ thể, Luật Bảo vệ phát triển rừng được thay bằng Luật lâm nghiệp. Theo đó, xác định lâm nghiệp là ngành kinh tế kỹ thuật theo chuỗi, từ trồng, bảo vệ khai thác thương mại, định hướng này đã làm thay đổi giá trị, nhận thức dẫn tới hành động thay đổi trong việc bảo vệ và phát triển rừng. Luật Lâm nghiệp còn hài hòa với Luật đất đai, bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học. Chúng ta đã giao đất giao rừng, thể hiện vai trò làm chủ của người trồng rừng, để dân chủ động sản xuất, kinh doanh bảo vệ rừng.

Theo ông Lê Minh Hoan - Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, rừng không chỉ đem lại giá trị về kinh tế mà còn đem lại giá trị về môi trường và xã hội, đặc biệt đem lại công ăn việc làm và thu nhập cho người dân sinh sống tại khu vực có rừng, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thông qua đó để tổ chức lại cộng đồng.

Còn nhiều khó khăn, thách thức

Năm 2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó, kế hoạch đặt ra mục tiêu, giai đoạn 2021 - 2030, tỷ lệ che phủ rừng sẽ từ 42 - 43%, giá trị sản xuất tăng từ 5 - 5,5%, mục tiêu đến năm 2025 giá trị xuất khẩu đạt 18 - 20 tỷ USD, năm 2030 đạt 23 - 25 tỷ USD.

Hiện nay, cả nước có hơn 6.000 doanh nghiệp xuất khẩu lâm sản. Trước đây, nguyên liệu sản xuất Việt Nam phải nhập hoàn toàn từ các nước, nhưng đến nay số liệu nhập khẩu đã giảm dần. Đây được coi là một thành công trong việc cải thiện giống và trồng rừng.

Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay các cơ chế chính sách trong trồng rừng gỗ lớn, tích hợp các giá trị của rừng chưa được đồng bộ; chính sách đầu tư hỗ trợ phát triển kinh tế lâm nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng, vai trò; việc trồng rừng bền vững và cấp chứng chỉ rừng chưa được quan tâm đầu tư; chưa phát huy được liên kết chuỗi giá trị rừng nguyên liệu…

Ông Trần Lâm Đồng – Phó Giám đốc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đánh giá, Việt Nam là quốc gia tiếp cận chứng chỉ bảo vệ rừng (FSC) từ sớm, tuy nhiên hiện nay rừng của bà con quản lý còn hạn chế, nhỏ lẻ.

Còn ông Vũ Thanh Nam cho rằng, trồng rừng gỗ lớn không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cao hơn cho các hộ gia đình, mà còn giúp giảm xói mòn góp phần bảo vệ môi trường và chống biến đổi khí hậu. Hiệu quả của rừng gỗ lớn so với rừng gỗ nhỏ đã được khẳng định, song loại rừng này vẫn chưa phát triển tương xứng.

Theo thống kê hiện tại, diện tích rừng trồng gỗ lớn sản xuất vào khoảng 1 triệu ha chủ yếu là các hộ gia đình, cá nhân quản lý, chiếm trên 60%. Đặc điểm nữa là rừng trồng của chúng ta chủ yếu là các loài cây mọc nhanh, cây trồng rừng tầm 5 - 6 tuổi là chúng ta đã khai thác rồi. Diện tích rừng trồng gỗ lớn hiện nay đang được chuyển hóa khá khiêm tốn, có 440.000ha, chiếm hơn 10% tổng rừng trồng sản xuất (với cây trồng rừng trên 10 tuổi).

Nguyên nhân chính dẫn đến những khó khăn và vướng mắc trong trồng rừng gỗ lớn đó là quỹ đất quy hoạch trồng rừng gỗ lớn quy mổ nhỏ, nhiều chỗ dưới 1ha manh mún, phân tản, không liền vùng. Việc trồng rừng gỗ lớn cần thời gian dài, người dân cần tiền phát triển kinh tế mà thời gian thì mất nhiều nên đây cũng là một trong những rào cản lớn.

Mặt khác, do chu kỳ dài nên câu chuyện vay vốn, tiếp cận vốn vay khó, tuy chính sách nhà nước cũng đã có những hỗ trợ nhất định nhưng cũng không thể đáp ứng được hết nhu cầu.

Việc trồng rừng gỗ lớn có nhiều rủi ro như gió bão, thiên tai, gây thiệt tại cho bà con. Ví dụ như trồng rừng gỗ lớn dọc biển miền Trung chẳng hạn, trong suốt 10 năm thì cũng sẽ có những trận bão, lũ gây thiệt hại không nhỏ cho bà con nông dân. Ngoài ra, còn kể đến những khó khăn về giống, biện pháp canh tác, liên kết giữa các doanh nghiệp, mặc dù đã phát triển trong thời gian vừa qua nhưng cũng còn hạn chế và chưa phổ biến.

Có thể thấy việc nâng cao chuỗi giá trị rừng nguyên liệu không chỉ nhằm đảm bảo nguồn đầu vào cho ngành chế biến và xuất khẩu gỗ mà còn để người dân, nhất khu vực vùng đồng bào dân tộc thiểu số sống nhờ rừng thêm cơ hội và điều kiện để phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững gắn với bảo vệ rừng.

Việc khai thác tốt tiềm năng, lợi thế cùng với các chính sách của Đảng, Nhà nước, nhất là chính sách hỗ trợ từ Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tốc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025, có ý nghĩa quan trọng để người dân có thêm điều kiện phát huy giá trị kinh tế ổn định cuộc sống và phát triển bền vững từ rừng.

Do đó, trong thời gian tới, rất cần những giải pháp mang tính chất căn cơ để tháo gỡ các vướng mắc, tạo thuận lợi hơn cho phát triển vùng nguyên liệu rừng trồng theo hướng đa giá trị, khai thác hiệu quả các giá trị từ rừng, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm gỗ bền vững, nâng cao thu nhập cho người trồng rừng…

Nguyễn Hạnh

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/nang-cao-chuoi-gia-tri-rung-nguyen-lieu-283969.html