Lễ hội Nàng Hai và ước vọng về mùa màng tươi tốt của dân tộc Tày

Lễ hội Nàng Hai (Nàng Trăng) của người Tày Cao Bằng thường được tổ chức vào dịp đầu năm mới. Đây là sinh hoạt văn hóa đặc sắc, ngoài ý nghĩa là một lễ hội cầu mùa lớn, nó còn phản ánh tục thờ Mẹ trong tín ngưỡng của người Tày. Trong đó, vai trò của bà mẹ được đặc biệt nhấn mạnh cùng với sự phát sinh, phát triển của nghề nông.

Những người tham gia lễ hội gieo hạt giống với mong ước một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Ảnh: Nhật Minh

Theo tín ngưỡng dân gian của người Tày, trên cung trăng có Mẹ Trăng và các nàng tiên. Mẹ Trăng cùng các nàng tiên hàng năm chăm lo bảo vệ mùa màng cho dân chúng. Lễ hội Nàng Hai được tổ chức với ý nghĩa tượng trưng cho hành trình lên trời đón Mẹ Trăng và các nàng tiên xuống vui hội trần gian, thăm thú ruộng đồng, nhà cửa, cuộc sống sinh hoạt hàng ngày và giúp trần gian trong công việc làm ăn sinh sống, phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, sinh sôi nảy nở.

Không chỉ mang ý nghĩa là một lễ hội cầu mùa, lễ hội Nàng Hai còn phản ánh tục thờ Mẹ trong tín ngưỡng của người Tày. Từ nhiều đời nay, người Tày có tục thờ Mẻ Bjoóc (Mẹ Hoa) và các nghi lễ gắn với quá trình sinh nở của người phụ nữ. Trong những câu chuyện truyền lại của người Tày, thế giới của Mẹ Hoa được thần tượng hóa như một cái cây, ở đó hoa vàng sẽ kết ra con trai, hoa bạc sẽ kết ra con gái... Xuất phát từ các quan niệm truyền thống về người Mẹ, kết hợp với quan niệm dân gian coi mặt trăng là chủ thể về thái âm (nữ tính) mà người Tày đã gắn trăng với vai trò của người mẹ lớn cai quản trần gian về nhiều việc, nhất là trong sản xuất nông nghiệp. Vì thế, trong thần thoại của người Tày, Nàng Trăng chính là con gái Vua trời, được cha giao cho trông coi công việc nhà nông ở cõi trần gian.

Lễ hội Nàng Hai là lễ hội kéo dài nhiều ngày, trong đó, hoạt động diễn xướng cộng đồng diễn ra liên tục. Chưa kể khi tổ chức lễ hội, có nhiều thủ tục đòi hỏi phải có sự nhất trí cao trong quá trình tổ chức, do đó, lễ hội Nàng Hai chính là dịp kết nối sự liên kết giữa các thành viên trong cộng đồng, giúp tăng cường sự đoàn kết, nhất trí trong cộng đồng người Tày.

Để tổ chức lễ hội Nàng Hai, người Tày chọn một bãi đất phẳng, rộng rãi làm nơi mở hội. Trên bãi căng vải dựng rạp gọi là trại mẻ mành, ở giữa trải chiếu hoa để Nàng Hai ngồi. Vào ngày hội, các gia đình trong bản chuẩn bị các mâm cỗ mặn gồm các món ăn truyền thống để đón khách đến chơi hội. Những người tham gia thực hiện nghi lễ trong lễ hội Nàng Hai gồm có Mẻ Cốc, Cường, Sở, các mụ nàng, mụ nọi, thầy tào và thêm hai thanh niên khỏe mạnh làm khủ tiến có nhiệm vụ đi trước dẹp đường cho đoàn người hành lễ. Mẻ Cường mặc áo vàng chít khăn vàng, Mẻ Sở mặc áo đỏ chít khăn đỏ, Mẻ Cốc mặc áo dài chàm. Các mụ nàng, mụ nọi mặc áo dài chàm, đầu buộc dải lụa đỏ hoặc vàng.

Lễ hội Nàng Hai gồm phần lễ và phần hội. Để tiến hành phần lễ, đồng bào Tày chuẩn bị 3 mâm xôi màu tím dâng lên Mẻ Cốc, Cường và Sở; 2 bồ đựng thóc giống, cây giống; 2 đĩa bánh quánh to; 1 ngọn mía và 1 sào hoa rừng. Ngoài ra, bà con còn chuẩn bị mâm lễ cúng thổ công.

Vào sáng sớm Mẻ Cốc, Cường, Sở và các mụ nàng, mụ nọi, khủ tiến tập trung tại nhà Nàng Hai thắp hương, sau đó hát khúc cầu nguyện mời Nàng Hai nhập vào Mẻ Cường, Sở. Tiếp theo là nghi lễ “mời sluông”, tất cả cùng hát khúc mời sluông vật quạt thật mạnh để sluông nhập vào Mẻ Cường và Sở. Tiếp đến phần “Lên đường”, một nhóm ngồi hát còn một nhóm do Mẻ Cốc dẫn đầu gồm khủ tiến, hai Mẻ Cường, Sở, các mụ nàng, mụ nọi cầm quạt múa sluông chầu đi vòng quanh trại mẻ mành. Sau khi thực hiện xong các điệu múa đoàn người ngồi xuống chiếu trong lán Nàng Hai để hát khúc lượn sluông.

Mọi người dọn đồ tế lễ lên thuyền rồi tiến hành lễ khao hoa, hát mời tất cả các mẹ trăng về dự hội dưới trần gian do Nàng Hai tổ chức. Khi Nàng Hai đã nhập xong, hai nàng đứng dậy khoác áo cũ, đi giầy, treo hai túi đựng trầu lên ngực chuẩn bị rời khỏi chiếu ngồi. Mọi người thu dọn hoa và các đồ lễ để đưa ra sân hội. Mẻ Cốc cầm ngọn mía đi đầu, tiếp theo đến người cầm bát hương Nàng Hai, khủ tiến đi hai bên, lần lượt đến Mẻ Cường, Sở và các mụ nàng, mụ nọi, vừa đi vừa hát khúc từ biệt. Đoàn người đi vòng quanh nhà Nàng Hai ba vòng, vừa đi vừa rung đổ nhà, kết thúc lễ phá nhà Nàng Hai.

Kết thúc lễ hội, mọi người hát khúc lễ tạ, khúc thu dọn sân hội. Mẻ Cường và Sở cầm bồ hạt giống, cây giống vãi tung ra xung quanh sân hội. Tiếp theo, đoàn người vừa hát vừa rời sân hội đi ra bờ suối làm lễ thả thuyền tiễn Nàng Hai rời trần gian. Lúc này tất cả mọi người cùng hát, vật quạt thật mạnh để hối thúc hồn Nàng Hai xuất khỏi Mẻ Cường và Sở. Thầy tào làm phép thu lại hồn vía cho các nàng. Lễ hội kết thúc khi mọi người thả thuyền, thả hoa.

Lễ hội Nàng Hai phản ánh hiện thực cuộc sống, nhân sinh quan cũng như những tâm tư, ước vọng của đồng bào dân tộc Tày để cầu mong mưa thuận gió hòa, đoàn kết và tôn trọng giữa những người cùng trong cộng đồng. Các câu hát đối đáp trong lễ hội đều có ý nghĩa chia sẻ, đồng cảm, khơi ngợi mọi người yêu thương, đối xử nhân từ, độ lượng với nhau hơn. Nó cũng còn có ý nghĩa cổ vũ, động viên bà con lao động, sản xuất với nguồn năng lượng, suy nghĩ tích cực, lạc quan. Đặc biệt, lễ hội Nàng Hai còn gây ấn tượng mạnh với các loại hình văn hóa đặc sắc, đa dạng như diễn xướng tập thể, nghệ thuật trang trí, điêu khắc, đẽo thuyền gỗ, làm đồ thủ công, nghệ thuật ẩm thực. Những kỹ năng này hiện vẫn đang được giữ gìn và trao truyền qua các thế hệ. Với những ý nghĩa hết sức nhân văn và tính đặc sắc, lễ hội Nàng Hai của người Tày đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia vào ngày 20/6/2017.

Thu Hằng

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/le-hoi-nang-hai-va-uoc-vong-ve-mua-mang-tuoi-tot-cua-dan-toc-tay-post473227.html