Lá rụng về cội

Sau nhiều năm trải nghiệm cuộc sống, tôi mới hiểu được thói quen ấy của bà ngoại tôi - Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Nghệ. Cũng như mỗi dịp lễ, tết, thắp nén hương thơm nơi các liệt sĩ yên nghỉ tại nghĩa trang liệt sĩ quê nhà, mới hiểu thêm về cội nguồn về bốn chữ Lá rụng về cội thiêng liêng sâu sắc đến nhường nào…

Giữa đồng bằng phì nhiêu do phù sa của Châu Giang và Hồng Hà bồi đắp của huyện Duy Tiên - Hà Nam nhô lên hai ngọn núi cao, người đời đặt tên là Điệp Sơn và Đọi Sơn. Dưới chân núi Điệp có xóm Núi, gia đình bà ngoại tôi ở đó.

Ông ngoại tôi tên Nguyễn Văn Tưởng (thường gọi Ký Tưởng) lúc trẻ đi làm công cho các đồn điền trên Thái Nguyên, được giác ngộ cách mạng. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, theo sự phân công của tổ chức về làng tham gia giành chính quyền, được giao làm đến phó chủ tịch chính quyền cách mạng xã Yên Nam. Rồi ông lâm trọng bệnh, mất để lại cho bà ngoại đàn con 8 người và một không gian sống của gia đình cách mạng… Lúc bí mật, lúc công khai, gia đình bà ngoại đều là cơ sở, là nơi đi về, nương náu của cán bộ, du kích mà các cậu, các dì tôi đều là thành viên.

Sau 32 năm nằm lại chiến trường, ngày 15/12/2000, liệt sĩ Nguyễn Trung Thứ được đưa về an nghỉ tại Nghĩa trang liệt sĩ quê hương

Thế rồi, tiếp theo là các cuộc đưa tiễn, những chia ly và mất mát đến với bà ngoại. Nuôi con trưởng thành rồi đến cả đàn cháu mồ côi cứ theo năm tháng và đòi hỏi của Tổ quốc mà diễn ra. Gian khổ, nhọc nhằn khiến lưng bà ngoại còng xuống, mắt mờ, chân chậm dần…

Cậu liền mẹ tôi tên Nguyễn Bản Nguyên, nhập ngũ ngay sau ngày Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 bùng nổ, để lại quê người vợ trẻ vừa cưới và anh dũng hy sinh ngay trận chiến chống lại giặc Pháp nhảy dù Bắc Cạn ngày 8/10/1947. Người con rể của bà tên Lê Đình Sỹ, quê ở Thừa Thiên Huế, bộ đội đóng quân tại xã, bà ngoại gả dì kế mẹ tôi và mời ở cùng nhà, thời gian ngắn cũng hy sinh gửi lại nhờ bà chăm thằng cháu ngoại chưa tròn tuổi tôi…

Người con trai thứ ba của bà tên Nguyễn Mạnh Tăng là công an vũ trang biền biệt đi tiễu phỉ miền biên viễn. Còn người con trai thứ hai, cậu Nguyễn Trung Thứ của chúng tôi, kết thúc kháng chiến chống Pháp là sĩ quan trung cấp của quân đội, chuyển về bộ tư lệnh binh chủng đóng quân tại Hà Nội. Cậu về quê lấy vợ, mợ chúng tôi một thôn nữ cùng làng tên Nguyễn Thị Thiêm và trong mấy năm hòa bình tạm thời ấy, sinh hạ hai cháu nội cho bà tôi.

Một hôm cậu đạp chiếc xe đạp Thống Nhất về nhà, thì thào gì đó với bà ngoại, cậu để chiếc xe đạp ở nhà - tài sản của cậu được phân phối do có quá trình chiến đấu rồi đi. Ít hôm sau bà ngoại khóc bảo: Cậu Thứ mày đi chiến trường rồi! Mợ Thiêm tôi có tiền sử bệnh tim, cậu đi một thời gian thì bệnh trở nặng. Tiền thuốc men chạy chữa lấy từ chiếc xe đạp của cậu để lại bán đi. Nhưng mợ cũng không qua được, để lại hai cháu mồ côi mẹ, vắng cha là Nguyễn Trung Thủy và Nguyễn Kim Thanh cho bà ngoại nuôi.

Nhà bà tôi lợp ngói, có sân gạch, hướng Đông - Nam. Ngồi hè nhìn ra sân thì cổng vào nhà bên tay trái. Sớm mai hoặc những đêm trăng lu, bà ngoại tôi lại trải chiếu xuống hè, mở cơi trầu mang cối ra đâm, bỏm bẻm nhai, tay giã, mắt cứ đăm đắm nhìn ra cổng, ra một hướng duy nhất ấy (như tôi nói ở đầu bài viết, mãi sau này chúng tôi mới hiểu thói quen ấy). Thỉnh thoảng bà hát, hát rằng:

Ai qua dãy núi Điệp Sơn

Núi cao bao thước căm hờn bấy nhiêu

Ngày ngày cứ đến buổi chiều

Cây đa bốt Điệp Pháp treo bắn người…

Hay:

Đã mấy lần xuân trôi, trôi mãi

Mấy lần cô lái mỏi mòn trông…

Vắng bóng cô em từ độ ấy

Để buồn cho bao khách, khách sang sông…

Lũ trẻ mồ côi chúng tôi thơ dại, có hiểu gì cho nỗi khắc khoải, đau đáu chờ con, đôi mắt khắc khoải nhìn ra cổng mỗi ngày của bà. Tôi chỉ nhớ câu bà hay ru các cháu vào những đêm khuya khoắt:

À ời…à ơi ! Lá vàng còn ở trên cây

Lá xanh vì nước, rụng ngày hay đêm

Rụng đâu thì hãy linh thiêng

Cội nguồn, ấy chốn thần tiên ớ ơ con về…

Nhiều lần tôi nhìn và nghe bà hát mà thấy xa xót vô cùng !

***

Bà ngoại tôi rời cõi tạm ngày 10/3 âm lịch năm 1979, đem theo về nơi cực lạc cả những vấn vít cõi trần chưa có lời giải. Thấu hiểu nỗi đau của mẹ, người con trai thứ ba của bà là cậu Nguyễn Mạnh Tăng, một sĩ quan công an cao cấp của chúng tôi sau một đời chinh chiến, lo việc nước cũng đã có thời gian tìm kiếm thông tin về hai liệt sĩ anh mình. Việc tìm thấy mộ phần sau 51 năm và đưa cậu Nguyễn Bản Nguyên, hy sinh tháng 10/1947 từ Bản Bó, xã Đông Viên, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Cạn năm 1998 về Hà Nam có lần tôi đã kể. Bây giờ tôi xin kể về hành trình tìm nơi hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ của liệt sĩ Nguyễn Trung Thứ. Câu chuyện thế này:

Sau lần đi tìm được anh cả ở Bắc Cạn, thấy vai trò của tâm linh quan trọng nên sau mấy năm lần tìm manh mối, tư liệu, gặp gỡ nhiều nơi, cũng có được ít nhiều thông tin nhưng không đủ để làm nên kết quả cuối cùng, cậu Nguyễn Mạnh Tăng đã tìm đến Chương trình nghiên cứu, trắc nghiệm tìm mộ liệt sĩ thất lạc bằng khả năng ngoại cảm (thuộc UIA) số 286 Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội… Rồi công việc tìm kiếm liệt sĩ Nguyễn Trung Thứ thành công viên mãn, ngày 22/12/2000 cậu Nguyễn Mạnh Tăng viết một bản báo cáo tỉ mỉ gửi Ban chủ nhiệm chương trình cũng là văn bản khẳng định và cảm ơn. Năm 2012 cậu Nguyễn Mạnh Tăng mất, bản phô tô báo cáo trở thành báu vật của gia đình.

…6 tháng trước, tôi (Nguyễn Mạnh Tăng) đến 286 Thụy Khuê đăng ký xin hướng dẫn tìm mộ anh trai là liệt sĩ Nguyễn Trung Thứ. Được hẹn đến làm việc là ngày 27/11/2000. Tôi đến đúng hẹn, nộp mấy giấy tờ theo yêu cầu: Bằng Tổ quốc ghi công, hy sinh ngày 27/7/1972. Giấy báo tử gia đình nhận được năm 1976…

10 giờ 30 phút ngày hôm sau (28/7) tôi được ông Nguyễn Văn Liên hướng dẫn. Ông Liên cầm tờ phiếu của tôi, bỏ vào túi áo rồi bắt đầu: Hỏi: Tìm ai? Đáp: Anh trai. Hỏi: Họ gì? Đáp: Họ Nguyễn. Hỏi: Đã đi tìm 1 lần rồi? Đáp: Đúng. Hỏi: Tìm ở vùng nào? Đáp: Hướng Hóa, Quảng Trị. Hỏi: Hy sinh trước năm 1970? Đáp: Nghe nói năm 1968…

Ông Liên tiếp: Liệt sĩ chống Mỹ, hy sinh trước năm 1970; có anh trai nhưng đã hy sinh. Liệt sĩ đã là cán bộ chỉ huy, có 2 con 1 trai, 1 gái. Bị thương 2 lần , một lần vào má, sứt răng và một lần vào đùi… Tôi đều thấy đúng và trả lời là đúng…

Sang phần hướng dẫn, ông Liên nói: Nơi Nguyễn Trung Thứ hy sinh thuộc huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Đến trụ sở xã Hải Lệ đi bộ chừng 3 giờ, đến gần khu vực động Ông Do, tìm đến đồi 500 tại nơi Trạm xá 75 đóng ngày trước. Sau đồi 500 có quá đồi thấp, có khe nước chảy vòng, đầu dưới có khe cụt, phía đông - nam còn 2 ngôi mộ, 1 quê Hà Nam, 1 quê Hà Bắc… Ông Liên còn nói rõ đặc điểm mộ, cần đến gặp chính quyền, những người sẽ được xã cử giúp đỡ…

Bằng Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Nghệ

Ngày 4/12/2000, đoàn đi Hải Lăng tìm kiếm và cất bốc hài cốt liệt sĩ Nguyễn Trung Thứ gồm: Nguyễn Mạnh Tăng, em trai; Nguyễn Kim Thanh, con gái; Phan Quang Đông, cháu liệt sĩ. Chiều 11/12/2000, qua trao đổi bằng điện thoại, ông Liên đã giúp cho gia đình hoàn tất việc tìm và cất bốc. Qua điện thoại, ông Liên nhắc: 16 giờ 40, đã tìm thấy, lấy xong, đưa về thờ ở cái lán con, trước mặt cái lán đang ở tại nền Trạm xá 75. Bọc hài cốt trong vải đỏ, thắp ngọn nến bên phải chỗ để hài cốt…

9 giờ 15 phút ngày 15/12/2000, gia đình đã đưa hài cốt liệt sĩ Nguyễn Trung Thứ về đến nghĩa trang liệt sĩ quê hương xã Yên Nam, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam trong nghi lễ trọng thể và vô cùng xúc động. Cậu Nguyễn Mạnh Tăng cũng đã làm báo cáo và có lời cảm ơn cơ quan, đơn vị đã giúp gia đình hoàn thành ước mơ của những bà mẹ như Mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Nghệ của chúng tôi…

Do nghề nghiệp, tôi nhiều lần đi Quảng Trị, đến xã Hải Lệ, huyện Hải Lăng và nhiều địa danh khác để viết về mảnh đất kiên trung, anh hùng cũng là cách nhắc nhớ về tấm gương chiến đấu, hy sinh của lớp cha ông chúng tôi và phản ánh về công cuộc đổi mới hôm nay trên mảnh đất này.

Phan Hữu Minh

Nguồn Quảng Trị: http://www.baoquangtri.vn/phong-su-ghi-chep/la-rung-ve-coi/178569.htm