Điều cần phải tính đến khi dùng cát biển san lấp nền đường

Chuyên gia cho rằng, khi khai thác cát biển vì bất cứ mục đích gì, phải bảo đảm không làm bờ biển bị sạt lở thêm. Không khai thác bên trong thềm châu thổ và phải tính toán đến khả năng nhiễm mặn đất.

Thí điểm dùng cát biển làm nền đường giao thông

Bộ GTVT và Bộ TN&MT vừa báo cáo Thủ tướng kết quả thí điểm và đánh giá việc sử dụng cát biển làm đường cao tốc cũng như hạ tầng giao thông, đô thị vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Trong đó, hai bộ đều đồng quan điểm mở rộng phạm vi thí điểm sử dụng cát biển làm các công trình giao thông.

Với yêu cầu đa dạng nguồn vật liệu phục vụ các công trình giao thông, Bộ GTVT đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành triển khai thí điểm sử dụng cát biển làm vật liệu đắp nền đường tại đoạn tuyến hoàn trả đường tỉnh 978 (ĐT.978) dự án thành phần đoạn Hậu Giang - Cà Mau, thuộc tuyến cao tốc Bắc - Nam. Hiện dự án đã hoàn thành, đưa vào khai thác từ tháng 8-2023.

Bộ TN&MT đã thực hiện nhiệm vụ đánh giá tài nguyên khoáng sản cát biển làm vật liệu xây dựng thông thường để phục vụ các công trình giao thông, đô thị khu vực ĐBSCL, tại vùng biển tỉnh Sóc Trăng, gồm khu B1 (250 km2) và khu B2 - B4 (diện tích 1.250 km2). Sau một năm thực hiện, Bộ TN&MT xác định tại khu B1 có vùng cát biển với diện tích 160,3 km2, phân bố nằm ngay trên bề mặt đáy biển. Cấu tạo vùng cát này có các thông số phù hợp, chẳng hạn như tính đồng nhất về thành phần, độ hạt khá cao; hệ số biến thiên chiều dày 28% và hàm lượng 10%, thuộc loại rất ổn định…

Khai thác cát biển cần được nghiên cứu thận trọng.

"Qua đó cho thấy khả năng sử dụng cát biển (nguyên khai) khu B1 đáp ứng yêu cầu làm vật liệu san lấp hạ tầng đô thị theo TCVN 5747:1993; đáp ứng được các chỉ tiêu cơ bản làm vật liệu san lấp nền đường ô tô theo TCVN 9436:2012…" - Bộ TN&MT cho hay.

Đối với khu B2 - B4, Bộ TN&MT cho biết kết quả công tác địa vật lý, địa chất năm 2023 đã khoanh định được ba khu vực, tổng diện tích 490 km2, với dự báo khoáng sản cát khoảng 1,1 tỉ m3. Theo các tài liệu địa chấn, dự đoán có hệ thống các cồn cát ngầm là các trầm tích sông biển hình thành trong các lòng sông cổ, chiều sâu dự đoán có thể đến 15m, có triển vọng về khoáng sản cát làm vật liệu xây dựng.

Với kết quả trên, Bộ TN&MT nhận định diện tích B1 đủ điều kiện chuyển giao đơn vị khai thác ngay theo Nghị quyết 43/2022 của Quốc hội về chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Đơn vị khai thác áp dụng giải pháp công nghệ khai thác hợp lý theo điều kiện khí tượng, hải văn khu vực đảm bảo giảm thiểu thiệt hại đối với môi trường và nuôi trồng thủy sản trong khu vực.

Trong quá trình khai thác, bộ này lưu ý cần thực hiện công tác quan trắc giám sát môi trường nước biển, trầm tích, thay đổi địa hình đáy biển và xói lở, bồi tụ bờ biển. Tiếp tục cập nhật mô hình dự báo tác động theo công nghệ khai thác, sản lượng khai thác, thời gian, tần suất khai thác thực tế áp dụng. Tiếp tục đánh giá các diện tích còn lại của đề án để đảm bảo nguồn vật liệu xây dựng cho khu vực ĐBSCL để giảm áp lực khai thác cát sông…

Không được khai thác cát trong thềm châu thổ ĐBSCL

GS.TSKH Nguyễn Ngọc Trân, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước cho rằng, việc lấy cát biển thay cát sông làm vật liệu san lấp nền đường cao tốc là chưa có tiền lệ. Bởi thực chất đó là mang mặn vào giữa những hệ sinh thái ngọt, một cuộc đánh đổi được/mất mà cho đến nay chưa thấy có nơi nào chấp nhận. Đối với ĐBSCL, cuộc đánh đổi còn mạo hiểm hơn nhiều vì đó là mang mặn vào giữa những cánh đồng lũ, trũng, cao trình thấp, nền đất yếu.

Bởi việc cát biển được dùng cho san lấp không được rửa mặn chứa một lượng nhất định muối hòa tan như NaCl, SO4, Mg. Vì vậy, sử dụng cát biển làm nền đường, với thời gian sẽ có một số tác động đến ruộng đất, môi trường nước mặt và nước ngầm ngoài khu vực san lấp như bị mặn hóa, có thể bị chua phèn do SO4 tích tụ và tồn tại trong nước chiết.

Châu thổ sông Mekong, mà ĐBSCL là phần nằm trong lãnh thổ Việt Nam, được hình thành từ quá trình biển rút khoảng 11.000 năm trước và từ bồi lắng trầm tích mà sông Mekong tải ra biển sau một hành trình hàng ngàn km. Châu thổ sông Mekong có phần nổi, phần chìm dưới mực nước biển mà ranh với cận châu thổ là dốc thềm châu thổ nơi mà độ sâu của các đường bình độ tăng nhanh trong một khoảng cách ngắn.

Do vậy, cát biển không thuần nhất. Sự phân bổ theo phương từ sông ra biển theo trọng lượng trầm tích là cát, cát bùn, bùn cát và bùn. Dòng chảy ven bờ lại cuốn các tổ hợp này di chuyển dọc bờ theo hướng đông bắc - tây nam trong các tháng 11 đến tháng 4 năm sau, và theo hướng tây nam - đông bắc trong các tháng 5 đến tháng 10.

Sự dịch chuyển là một nguyên nhân của bồi, lở bờ biển. Trên từng đoạn bờ biển sẽ bồi nếu cán cân trầm tích (hiệu số đầu vào trừ đầu ra) dương; ngược lại lở nếu cán cân là âm, không đổi nếu bằng không. Hố mà đào/hút cát để lại do vậy tác động đến lở bờ biển.

"Khi khai thác cát biển vì bất cứ mục đích gì, phải bảo đảm không làm bờ biển bị sạt lở thêm. Cụ thể, không khai thác bên trong thềm châu thổ. Hãy nhớ rằng nơi đây là tài nguyên quốc gia tích lũy từ hàng ngàn năm nay, là an sinh của người dân, là tài sản cố định mà họ đã dành dụm từ nhiều đời", GS.TSKH Nguyễn Ngọc Trân nói.

TS Thái Duy Sâm, Phó chủ tịch Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam, cho rằng Bộ Giao thông Vận tải cần có đánh giá tác động môi trường xung quanh khi sử dụng cát biển trên diện rộng, bởi lo ngại khả năng cát biển gây nhiễm mặn, ảnh hưởng đến cây trồng. Các địa phương cần nhanh chóng khảo sát, quy hoạch khu vực có thể dùng cát biển để không ảnh hưởng môi trường, tránh nguy cơ sạt lở ven bờ biển như khi khai thác cát sông.

Tô Hội

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/dieu-can-phai-tinh-den-khi-dung-cat-bien-san-lap-nen-duong-169240320101516665.htm