Đa phần người mắc ung thư cổ tử cung đến viện muộn: Đề xuất BHYT chi trả xét nghiệm chẩn đoán sớm

Việc đáp ứng các mục tiêu loại trừ ung thư cổ tử cung sẽ tạo ra lợi ích kinh tế và xã hội đáng kể, dựa trên ước tính rằng mỗi USD đầu tư có thể mang lại khoảng 28 USD khi xem xét tác động của sức khỏe được cải thiện của phụ nữ đối với gia đình, cộng đồng và xã hội.

Đề xuất quỹ Bảo hiểm Y tế (BHYT) chi trả phí khám, sàng lọc phát hiện sớm ung thư cổ tử cung (UTCTC) là một trong những nội dung trọng điểm được Bộ Y tế cùng lãnh đạo đại diện các Bộ, Ban, Ngành, địa phương và các chuyên gia bàn thảo tại hội nghị "Đề xuất mở rộng phạm vi quyền lợi BHYT về vấn đề chẩn đoán, điều trị sớm cho một số bệnh trong dự án Luật BHYT sửa đổi" vừa được Bộ Y tế tổ chức.

Việc xem xét phạm vi chi trả của Quỹ BHYT cho sàng lọc phát hiện UTCTC và một số bệnh lý khác: Mang lại nhiều lợi ích

Theo ThS. Trần Thị Trang - Quyền Vụ trưởng Vụ bảo hiểm Y tế (Bộ Y tế), UTCTC là ung thư có thể phòng ngừa và chữa khỏi hoàn toàn nếu phát hiện sớm và điều trị sớm, và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã xác định một chiến lược toàn cầu để đáp ứng mục tiêu này thông qua tiêm chủng, sàng lọc và điều trị (mục tiêu "90-70-90" vào năm 2030).

Theo bà Trần Thị Trang- Quyền Vụ trưởng Vụ BHYT (Bộ Y tế), việc xem xét phạm vi chi trả của Quỹ BHYT cho việc sàng lọc phát hiện UTCTC nói riêng và một số bệnh lý khác là rất quan trọng và có thể mang lại hiệu quả, lợi ích cao cho người bệnh, Quỹ BHYT và xã hội

Bà Trang thông tin, Chính phủ Việt Nam cam kết đạt tỷ lệ sàng lọc UTCTC là 60% vào năm 2025, nhưng hiện chỉ có 28% phụ nữ Việt Nam được sàng lọc hàng năm. Tỷ lệ sàng lọc trong 3 năm qua là 17%, trong khi tỷ lệ sàng lọc trong 5 năm qua là 21%, cho thấy có một khoảng cách đáng kể để đạt được mục tiêu sàng lọc.

"WHO cũng đã đưa ra bằng chứng rằng việc đáp ứng các mục tiêu loại trừ UTCTC sẽ tạo ra lợi ích kinh tế và xã hội đáng kể, dựa trên ước tính rằng mỗi USD đầu tư có thể mang lại khoảng 28 USD khi xem xét tác động của sức khỏe được cải thiện của phụ nữ đối với gia đình, cộng đồng và xã hội. Vì vậy, việc xem xét phạm vi chi trả của Quỹ BHYT cho việc sàng lọc phát hiện UTCTC nói riêng và một số bệnh lý khác là rất quan trọng và có thể mang lại hiệu quả, lợi ích cao cho người bệnh, Quỹ BHYT và xã hội"- Bà Trang nói.

Cũng về nội dung này, các chia sẻ về "Gánh nặng bệnh tật, kinh nghiệm quốc tế về các ưu tiên chính sách liên quan đến UTCTC" từ GS.TS. Nguyễn Vũ Quốc Huy - Phó Chủ tịch Hội Phụ Sản Việt Nam, Hiệu trưởng Trường Đại học Y - Dược, Đại học Huế; "Tính chi phí - hiệu quả trong xét nghiệm sàng lọc UTCTC trên thế giới và tại Việt Nam" từ TS. Ong Thế Duệ - Trưởng khoa Tài Chính y tế và đánh giá công nghệ y tế, Viện chiến lược và chính sách y tế (Bộ Y tế); và "Nâng cao năng lực y tế cơ sở trong sàng lọc UTCTC" từ TS. Nguyễn Thị Vân Anh - Trưởng văn phòng đại diện FIND Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của cả cơ quan ban hành chính sách, cơ quan quản lý cũng như các đơn vị thực thi chính sách.

GS.TS. Nguyễn Vũ Quốc Huy - Phó Chủ tịch Hội Phụ Sản Việt Nam, Hiệu trưởng Trường Đại học Y - Dược, Đại học Huế trình bày về các chương trình sàng lọc UTCTC bằng HPV đầu tay đơn lẻ.

Những nội dung chia sẻ trên đóng vai trò cơ sở khoa học và bằng chứng quan trọng để Bộ Y tế và các cơ quan liên quan đánh giá, nghiên cứu, xây dựng Luật BHYT sửa đổi, đảm bảo sự cân bằng giữa quyền lợi của người thụ hưởng và nguồn tài chính của Quỹ BHYT.

Theo GS.TS. Nguyễn Vũ Quốc Huy - Phó Chủ tịch Hội Phụ Sản Việt Nam, Hiệu trưởng Trường Đại học Y - Dược, Đại học Huế: Nếu như được phát hiện sớm và xử lý một cách đúng đắn những trường hợp tiền ung thư UTCTC, tỷ lệ chữa lành bệnh lên đến 99%".

Trong các phương pháp sàng lọc UTCTC, các hướng dẫn cập nhật của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (2020), Hiệp hội Sản phụ khoa Hoa kỳ (2021) và Tổ chức Y tế Thế giới (2021) đang khuyến cáo ưu tiên sử dụng xét nghiệm HPV DNA đầu tay đơn lẻ với khoảng cách sàng lọc 5 năm/lần, cùng với que tăm bông tự lấy mẫu để gia tăng độ phủ sàng lọc. Từ bức tranh các nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã triển khai thành công chương trình sàng lọc quốc gia, hầu hết đều sử dụng xét nghiệm HPV DNA đầu tay đơn lẻ, hoặc đang được chuyển đổi từ các phương pháp khác như tế bào học sang HPV DNA.

Phần lớn người bệnh UTCTC đến khám và điều trị khi bệnh đã ở giai đoạn muộn

UTCTC là một trong những ung thư hay gặp ở nữ giới, chiếm khoảng 12% của tất cả các ung thư ở nữ giới và là nguyên nhân gây tử vong thứ hai sau ung thư vú. Theo ghi nhận ung thư 2020, Việt Nam có hơn 9.000 ca mắc mới và có hơn 3.000 ca tử vong vì căn bệnh này. Phần lớn người bệnh đến khám và điều trị khi bệnh đã ở giai đoạn muộn.

Tại Việt Nam, trong những năm qua một số các hoạt động cũng được triển khai cho thấy Việt Nam đã có sự chuẩn bị cho chương trình sàng lọc quốc gia như chương trình thí điểm về sàng lọc giai đoạn 2019-2025 với sự sẵn có của các phương pháp sàng lọc UTCTC ở Việt Nam, hướng dẫn dự phòng và sàng lọc UTCTC đang trong quá trình cập nhật phù hợp với xu hướng trong khu vực và trên thế giới; và một mắt xích không thể thiếu của chương trình là hệ thống ghi nhận sàng lọc ung thư mà gần đây đã được khảo sát để triển khai, có thể được tích hợp với hệ thống quản lý dữ liệu y tế sẵn có.

TS Ong Thế Duệ - Phó Trưởng khoa Tài Chính y tế và Đánh giá công nghệ y tế, Viện chiến lược và chính sách y tế ( Bộ Y tế) đánh giá hiệu quả chi phí xét nghiệm HPV DNA

TS. Ong Thế Duệ - Phó Trưởng khoa Tài Chính y tế và Đánh giá công nghệ y tế, Viện chiến lược và chính sách y tế (Bộ Y tế) cũng chỉ ra rằng bằng chứng từ các nghiên cứu đánh giá hiệu quả chi phí của phương pháp HPV DNA so với xét nghiệm tế bào học, cả trên thế giới và trong bối cảnh Việt Nam, đều cho thấy phương pháp HPV DNA có hiệu quả chi phí cao hơn xét nghiệm tế bào học. Nhằm giảm gánh nặng của UTCTC, quỹ bảo hiểm y tế hoặc ngân sách nhà nước xem xét chi trả hoặc đồng chi trả cho việc triển khai sàng lọc UTCTC định kỳ cho phụ nữ Việt Nam.

Nhiều ý kiến của các chuyên gia cũng nhấn mạnh việc ủng hộ, đồng hành trong các đề xuất mở rộng phạm vi quyền lợi bảo hiểm y tế về vấn đề chẩn đoán, điều trị sớm cho một số bệnh bao gồm cả ung thư cổ tử cung. Nhiều vấn đề sẽ cần được làm rõ trong thời gian tới như cơ sở cơ sở pháp lý, cân đối quỹ, lộ trình giá để đảm bảo quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế.

"Để đề xuất Quốc hội và Chính phủ xem xét, điều chỉnh chính sách chi trả BHYT cho việc sàng lọc, phát hiện sớm một số bệnh, nội dung này đòi hỏi cần được nghiên cứu, đánh giá, cung cấp thông tin cụ thể để có đầy đủ bằng chứng khoa học và căn cứ thực tiễn"- bà Trang nói.

Thái Bình/Ảnh: Trần Minh

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/da-phan-nguoi-mac-ung-thu-co-tu-cung-den-vien-muon-de-xuat-bhyt-chi-tra-xet-nghiem-chan-doan-som-169230911144638201.htm