Có nên quy định hạn mức chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm?

TS. Bùi Ngọc Thanh - Nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Tại Khoản 1 Điều 130 Luật đất đai năm 2013 quy định: Người tích tụ, tập trung ruộng đất được nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm không quá 10 lần hạn mức giao đất nông nghiệp. Trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), tại Khoản 1 Điều 171 đưa hạn mức này lên được nhận không quá 15 lần (tức là gấp 1,5 lần so với Luật hiện hành). Thoáng nghĩ tưởng là lớn, nhưng thực ra chưa sát hợp với thực tế.

Đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối cho mỗi hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất không quá 3ha đối với mỗi loại đất thuộc khu vực Nam Bộ, thì mức được nhận chuyển quyền sử dụng đất hiện tại là không quá 30ha; nay đưa lên gấp 1,5 lần, tức là không quá 45ha. Các vùng còn lại tương tự như vậy, từ không quá 20ha lên không quá 30ha. Các con số 30ha hay 45ha còn thấp thua xa với thực tế, vì từ năm 2020 ở đồng bằng sông Hồng đã có các chủ đơn vị sản xuất sử dụng trên 100ha, tức là cao gấp hơn 5 lần so với quy định của Luật Đất đai hiện hành, và cao hơn 3,1 lần so với Khoản 1 Điều 171dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi). Ở đồng bằng sông Cửu Long có đơn vị sản xuất còn có số ruộng đất lớn hơn thế nhiều. Thực ra, Luật Đất đai năm 2013 ít nhiều vẫn có ý thức giữ đất, san sẻ việc làm cho mỗi hộ gia đình khi còn thiếu việc làm.

Đường lối Đại hội XIII của Đảng là phải,“Chú trọng phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao; phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương”, phân công lại lao động, giảm nhanh laođộng nông nghiệp và lấy hiệu quả sản xuất làm đầu. Còn theo Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị Trung ương 5 Khóa XIII, thì phải “Mở rộng đối tượng, hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng vùng, địa phương, với việc chuyển đổi nghề, việc làm, lao động ở nông thôn”. Do vậy, không nhất thiết phải đặt ra hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất đối với đất trồng cây hàng năm. Vấn đề là phải quy định chặt chẽ điều kiện được nhận chuyển quyền và chế tài chặt chẽ để không xảy ra đầu cơ đất đai nông nghiệp. Do đó và vì thế, Luật mới không thể đi sau thực tiễn tiến bộ đã đạt được.

Liên quan đến hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất có vấn đề tập trung và tích tụ ruộng đất nông nghiệp. Tại Điều 3. Giải thích từ ngữ - thuật ngữ (từ ngữ) số 43 đã giải thích: Tập trung đất nông nghiệp việc tăng diện tích đất nông nghiệp để tổ chức sản xuất thông qua phương thức hợp tác, chuyển đổi hoặc thuê quyền sử dụng đất của người khác mà không làm mất đi quyền sử dụng đất của người sử dụng đất. Thuật ngữ (từ ngữ) số 47 Điều 3 - Giải thích Tích tụ đất nông nghiệp việc tăng diện tích đất nông nghiệp của người sử dụng đất để tổ chức sản xuất thông qua phương thức nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà có thực hiện chuyển quyền sử dụng đất.

Giải thích như trên có lẽ vừa chưa đủ các hình thức tập trung, chuyển quyền sử dụng đất, vừa chưa phân biệt rõ bản chất và hệ quả của các hình thức chuyển quyền sử dụng đất. Do vậy, có thể tham khảo sự phân biệt tích tụ và tập trung đất nông nghiệp như sau: Tích tụ đất nông nghiệp là quá trình nhận chuyển nhượng (mua) quyền sử dụng đất, làm tăng diện tích đất sử dụng, từ nhiều chủ sử dụng thành một chủ sử dụng duy nhất (kết quả là người tích tụ có quyền sử dụng đất lâu dài nên yên tâm hơn khi đầu tư phát triển nông nghiệp trên đất đai đã tích tụ - mua được).

Tập trung đất nông nghiệp là sự liên kết nhiều mảnh đất của nhiều chủ sử dụng khác nhau thành khu đất lớn. Nhưng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân vẫn không thay đổi (người cho thuê đất, cho mượn đất hay góp vốn bằng đất vẫn còn quyền sử dụng đất, khi hết thời hạn thuê, mượn hoặc làm ăn kém hiệu quả, người cho thuê, mượn hoặc góp vốn có quyền lấy lại đất của mình).

Như vậy, tích tụ và tập trung đất nông nghiệp có điểm chung là cùng làm tăng diện tích đất nhằm tăng quy mô sản xuất hướng đến hiệu quả cao, nhưng khác nhau ở chỗ, người chuyển nhượng (người bán quyền sử dụng đất cho người tích tụ) thì mất quyền sử dụng đất; còn tập trung (dồn điền đổi thửa, cho thuê, cho mượn, góp vốn bằng đất) dù không còn đất canh tác riêng song vẫn còn quyền sử dụng đất.Đối với người tích tụ đất thì yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài, còn người tập trung đất thì không yên tâm lắm vì một số hình thức tập trung như thuê, mượn... là có thời hạn...

Cũng cần xem lại hình thức tích tụ đất nông nghiệp “nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà có thực hiện chuyển quyền sử dụng đất” như dự thảo từ ngữ số 47. Bởi nếu tính ra tiền để góp vốn thì đó là hình thức chuyển nhượng rồi, nếu không tính thành tiền thì đó là hình thức tập trung (không phải tích tụ).

Việc phân biệt tích tụ và tập trung ruộng đất nông nghiệp không chỉ là minh bạch hóa về hình thức mà là quá trình sử dụng đất sau tích tụ, tập trung đã xuất hiện nhiều vấn đề cả kinh tế và xã hội. Trong đó, có những vấn đề xã hội rất đáng lưu tâm. Ví dụ trong quá trình tích tụ có một bộ phận nông dân làm ăn khó khăn, sinh ra túng thiếu, bán hết quyền sử dụng đất (nói tắt là bán hết đất), rơi vào tình trạng như là bị “bần cùng hóa”! Thực tiễn, chúng ta đã xử lý rất quyết liệt vấn đề này... Từ những lý giải trên, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc thuật ngữ (từ ngữ) số 43 và số 47 Điều 3 của dự thảo cho chuẩn xác hơn, vì từ ngữ này được sử dụng ở nhiều điều, khoản của dự thảo Luật, đặc biệt là 50 Điều của Chương XIII, trực tiếp liên quan là Điều 185 - Tập trung đất nông nghiệp, Điều 186 - Tích tụ đất nông nghiệp.

Điều 87. Cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất: Điểm a Khoản 1 quy định: a) Việc cưỡng chế phải tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, bảo đảm trật tự, an toàn, đúng quy định của pháp luật.

Đề nghị cân nhắc, có nên đưa thuật ngữ “dân chủ” vào đây không. Dân chủ trong cưỡng chế, nghe chừng khó đứng cùng một chỗ!Các tính chất “công khai”, “khách quan”, “an toàn”, “đúng quy định của pháp luật” là đã đầy đủ.

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/dien-dan-quoc-hoi-va-cu-tri/co-nen-quy-dinh-han-muc-chuyen-quyen-su-dung-dat-nong-nghiep-trong-cay-lau-nam--i318795/