Chùm thơ của Đỗ Trung Lai

Nhà thơ, nhà báo Đỗ Trung Lai, tuổi Canh Dần (1950), quê Phùng Xá, Mỹ Đức, Hà Tây (cũ). Ông tốt nghiệp khoa Vật Lý Đại học Sư phạm HN, vào lính sư 338; sau dạy học trong quân đội về làm báo Quân đội ND, Phó TBT Thường trực báo Tiếng nói Việt Nam. Ngoài làm báo, làm thơ, vẽ tranh ông còn dịch thơ Đường, cuốn '100 nhà thơ Đường' đồ sộ gần 1.000 trang của ông là một công trình lớn. Ông được giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng năm 1994 với tập thơ 'Đêm sông Cầu'. Thơ Đỗ Trung Lai là giọng thơ truyền thống trữ tình đằm thắm nhưng gửi gắm nhiều tâm sự, triết lý nhẹ nhàng, tự nhiên.

Đêm thu, dắt cháu vào phố cũ
Thân yêu tặng Mũm - cháu ngoại đầu

Dắt Mũm chơi hè phố xưa
Đèn đường xua tan sương mờ
Sáng rực trên nền lá biếc
Một chiếc lá bàng vàng mơ
Vàng mơ trỏ về Cuối thu
Cuối thu là nơi ông ở
Chỉ vì theo cháu bi bô
Mà đêm, ông còn ra phố
Cháu đòi. Ông tìm mọi cách
Lấy cho bằng được lá vàng
Lá cầm tay rồi, cháu hỏi
Trả lời, dễ phải ngàn trang
*
- Ông ơi! Lá vàng tên gì?
- Lá vàng tên là Hữu hạn!
- Ông ơi! Hữu hạn là gì?
- Nghĩa là Rồi xa muôn dặm!
- Ông ơi! Muôn dặm là gì?
- Ấy là Ra ngoài tầm mắt!
- Ra ngoài tầm mắt là gì?
- Là đã Hình xa bóng khuất!

- Hình xa bóng khuất là gì?
- Là Cuối trời hay Lòng đất!
- Cuối trời, Lòng đất là gì?
- Là Cháu không còn ông dắt!
- Sao cháu lại không còn ông?
...
- Kìa! Khéo lá vàng bay mất!

Môi dịu dàng, Ta gọi Bắc Giang thu

(Kính tặng hương hồn Cụ Đề Thám
và hương hồn những nghĩa quân Yên Thế)

Sông Lục Nam mềm xanh
Thành Nhã Nam rắn rỏi
Rừng Lục Ngạn không biết đâu là cuối
Bắc Giang thu, nắng trải đón chân người.
Đồng nhỏ trong thung, mảnh ruộng chân đồi
Màu no ấm tràn về tận cửa
Sông Thương đục, sông Thương trong muôn thuở
Gió rải đồng trong tiết hanh heo
Trung du thơm như khay mật ong chiều
Đến sỏi đá cầm lòng còn chẳng được
Ai hát khúc núi đồi thuở trước
Dẫu không đò, ta cũng phải sang ngang.
Vạt lúa chín Phồn Xương như dải khăn vàng
Buông thơm thắm bên ngực trần sơn nữ
Quân Đề Thám vẫn đang ngồi đâu đó
Dưới bóng rừng, bên hồ rượu mùa thu
Tay đã buông gươm súng tự bao giờ
Rượu men lá, lòng son tày nhật nguyệt
Ta thong thả vén tay tìm nhập cuộc
Bát rượu đầu, xin cạn với non sông
Non sông đau, hào kiệt chẳng cam lòng
Trời không tựa, anh hùng đành ôm hận
Thân về đất, tim hồng thành ngọc nát
Thành hoàng hôn thắm đỏ đất trời thiêng
Đất trời thiêng thơm danh tiếng hùm thiêng
Tượng Đề Thám sừng sững trời Yên Thế
Người khởi nghĩa, áo mang màu đất mẹ
Đầu quấn khăn vồ, râu cọp phất phơ bay
Xin cạn với riêng ông bát rượu thứ hai này
Giặc đã chạy, quốc thù xưa đã báo
Quanh đồn lũy, đá như nồi như đấu
Ngổn ngang nằm trong sắc cỏ mùa thu
Không phải đá đâu. Đó là những câu thề
Đã hóa thạch: “Quyết không làm nô lệ!”
Lời thề đá, xưa xây thành đắp lũy
Vẫn nguyên lành dù lũy vỡ thành tan
Vẫn nguyên sinh trong cỏ nội hoa ngàn
Rồi sẽ lại gầm lên khi giặc đến
Bao trượng nghĩa mới nên bờ nên bến
Bát rượu thứ ba này, xin cạn với ba quân
Nắng nhuộm vàng cây, lúa trải đỏ đồng
Thu thắng trận, thu hòa đàm, thu thất thế
Thu chết tướng, thu tan quân, thu yên nghỉ
Thu lộng lẫy, thu hào hùng, thu giản dị
Chuốc rượu dưới quân kỳ, bao cung bậc thu qua.
Chuông thu không, rừng động dưới trăng già
Tiếng trống trận, tiếng tù và đã tắt
Nhưng tiếng hát thì không bao giờ hết
Tiếng hát giữa lòng người, tiếng hát giữa non sông
Rằng, “Muôn năm dòng máu anh hùng!”
Rằng, “Vạn tuế giống dòng hào kiệt!”
Thời gian trôi, thời gian trôi mải miết
Dạ ngọc gan vàng chói lọi giữa thiên thu.
Rượu Bắc Giang sóng sánh dưới trăng mờ
Bát này nữa, rồi xa miền cổ tích
Nữa! Nữa! Nữa!... Rồi mỗi khi ấm lạnh
Môi dịu dàng, ta gọi: “Bắc Giang thu!”.
Thu, nhớ Quang Dũng

Sách cũ lâu ngày mờ nét chữ
Lối cũ càng đi càng nhớ người
Trấn thủ ôm thân đoàn vệ quốc
Sương vương nương tây lòng xa xôi
Mường Hịch, Sài Khao cùng Hát Lót
Ai đi, lau xám vờn lưng trời
Sông Mã gầm lên độc hành khúc
Còn dòng thi sĩ còn khơi vơi
Thơ ứa mỗi lời như máu ứa
Quê hương mờ mịt sau lưng người
Này cọp, này em, này khúc khuỷu
Cồn mây ngày ấy ở đâu rồi?
Độc mộc trông hoài sao chẳng thấy
Mỹ nhân, thi sĩ phận như vôi
Sốt rét chân rừng, run tựa lá
Hãn huyết pha sương thảo mấy lời
Đồng đội đọc xong cười xung trận
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
Áo bào thay chiếu ai về đất
Mực sót đôi câu tạ trước người!
Thơ phú bây giờ như chợ chữ
Nhạt tình, nhạt huyết, nhạt mồ hôi
Bìa cứng, giấy thơm ngồi bảnh chọe
Chữ nghĩa ông xưa tựa núi đồi
Phủ Quốc, Sài Sơn, đồng Bương Cấn
Những mắt Sơn Tây mở dưới trời
Thu cũ vàng trong mùa lúa mới
Lúa mới vàng trong thu cũ rơi.

Thu, nhớ Lưu Trọng Lư

“Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?”
Người làm thơ, từ lâu
Đã không cần giấy mực!
“Em không nghe mùa thu
Lá thu kêu xào xạc?”
Người làm thơ, từ lâu
Lá vàng là thân xác!
Em không nghe mùa thu
Dù ta còn hay thác
Gió thu vẫn qua rừng
Kêu những chiều diệp lạc.

Đỗ Trung Lai

Nguồn Lao Động: https://laodong.vn/lao-dong-cuoi-tuan/chum-tho-cua-do-trung-lai-571060.ldo