Câu chuyện làm ăn: Tin bạn có thể bị mất 'bò'

Từng là bạn bè thân thiết trước khi làm ăn chung. Tuy nhiên, khi hợp tác làm ăn chỉ bằng 'niềm tin' sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy, đặc biệt khi bên được giao quản lí tài sản chung nổi lòng tham, họ sẽ sẵn sàng bất chấp đạo lý, bất chấp pháp luật tìm cách chiếm luôn tài sản của người cùng hợp tác. Câu chuyện hai người bạn cùng hợp tác làm ăn giờ đây kéo nhau ra tòa, như lời cảnh báo 'Tin bạn mất bò'.

Nội dung bản án

Trước đây, các ông P.N.T, sinh năm 1974 (Quận 10, Tp Hồ Chí Minh), H.Q.C, sinh năm 1978 (Quận 10, Tp. Hồ Chí Minh) và ông N.Đ.V (Phường Đức Nghĩa, Tp. Phan Thiết) là những người bạn thân thiết. Thế nhưng nay, vì bức xúc trước thái độ cũng như hành vi của ông V, 2 ông T và C đã khởi kiện ông V ra tòa.

Theo bản án, vào năm 2008, ông T, ông C và ông V cùng hợp tác mua đất tại thôn Ninh Thuận, xã Hàm Chính, huyện Hàm Thuận Bắc với diện tích là 21,48 ha. Trên đất đã có sẵn 4.000 trụ tương đương 4ha thanh long đang thu hoạch, 2.5 ha xoài cát hòa lộc, 2 hồ nước lớn có đủ nước tưới quanh năm, chưa kể một đàn bò lên đến vài chục con. Tỉ lệ góp vốn, ông T, ông C là 50% và ông V là 50%. Cả hai bên đều thống nhất, sau khi bán đất rồi chia đôi theo tỷ lệ 50/50. Trong thời gian chờ bán đất, ông V đã thuê lại diện tích đất trên để khai thác thanh long và xoài. Nhưng theo thỏa thuận, hàng năm, ông V phải trả tiền thuê và lợi nhuận khai thác thanh long và xoài cho 2 ông T và ông C. Đó là, vào năm 2009, các ông cùng thống nhất góp thêm tiền đầu tư bình điện hạ thế 100KVA và đồng ý cho ông V thuê đất để khai thác với giá là 100 triệu đồng cho năm đầu tiên và cứ thế mỗi năm tăng thêm 20.000.000 đồng cho đến khi bán được đất. Tuy nhiên, qua hơn 10 năm khai thác và sử dụng, ông V chỉ thanh toán tiền thuê cho hai ông T và C được đúng 1 năm đầu là 100 triệu đồng, số tiền còn lại cho đến tận ngày bán đất ông V vẫn không thanh toán. Nhưng vì tin tưởng bạn bè, 2 ông T và C cũng không nhắc đến.

Ngày 3/12/2021, ông V cho biết có người đồng ý mua đất trên với số tiền 14.500.000.000 (Mười bốn tỷ năm trăm triệu đồng), nên các ông đã đồng ý bán lại diện tích đất trên. Bên mua đất đã chuyển tiền mua đất qua tài khoản của ông V, nhưng ông V chỉ chuyển trả cho hai ông T và C với số tiền chỉ là 3 tỷ đồng đồng. Số còn là 4 tỷ đồng (trừ tiền chi phí môi giới đất là 500.000.000 đồng, mỗi bên là 250.000.000 đồng), ông V vẫn chưa chịu hoàn trả.

Cũng trong bản án này, ông V cho rằng, vào năm 2013, các ông đã cùng nhau thành lập Công ty VT… nên có vay mượn tiền ngân hàng, nhưng do kinh doanh thua lỗ nên đã có tính toán phương án chịu trách nhiệm công nợ. Vì vậy, khi chia tỷ lệ 50/50 thì mỗi bên là 7.000.000.000 đồng, ông V cấn trừ tiền nợ ngân hàng của ông C, ông T là 4.000.000.000 đồng nên ông V chỉ chuyển trả tiền bán đất cho ông T, ông C là 3 tỷ đồng. Ngoài ra, ông V cho rằng, ông đã chăm sóc và cải tạo phát sinh lợi nhuận đất tính từ năm 2008 đến năm 2021 là 4.898.750.000 đồng và tiền đầu tư công trình trên đất là 1.702.500.000 đồng. Do đó, ông V yêu cầu ông C, ông T phải trả lại cho ông V số tiền là 5.750.000.000 đồng là tiền đầu tư công trình trên đất và tiền chăm sóc cải tạo đất làm phát sinh lợi nhuận từ năm 2008 đến năm 2021 (số tiền 1.702.500.000 đồng là tiền đầu tư trên đất chia 2 mỗi bên là 851.250.000 đồng).

Về phía ông T và ông C, cho rằng những yêu cầu của ông V là vô lý và sau nhiều lần thương lượng bằng tình cảm bạn bè với ông V để được trả lại tiền bán đất chung không thành, bất đắc dĩ ông T và ông C phải kiện ông V ra tòa.

Phán quyết của tòa

Sau khi nghiên cứu hồ sơ và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử đã nhận định: Việc mua đất chung góp theo tỷ lệ 50/50 giữa hai bên và việc phía ông T, ông C và ông V chuyển và nhận số tiền 3 tỷ đồng đều được nguyên đơn, bị đơn xác nhận. Đây là tình tiết sự thật không cần phải chứng minh.

Theo Tòa án Tp. Phan Thiết, bản chất vấn đề tranh chấp ở đây là số tiền còn lại 4.250.000.000 đồng. Phía nguyên đơn cho rằng bị đơn chưa chuyển trả số tiền còn lại, còn bị đơn cho rằng số tiền còn lại trong đó 500.000.000 đồng là tiền chi phí môi giới, còn 4.000.000.000 đồng đã cấn trừ trả nợ việc làm ăn thua lỗ trước đó kể cả trả lãi suất ngân hàng do đã cùng nhau hùn vốn làm ăn Công ty TNHH VT... Tòa xét thấy, số tiền 4.250.000.000 đồng nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả và trong quá trình giải quyết phía nguyên đơn đồng ý trừ phí môi giới là 500.000.000 đồng (mỗi bên 250.000.000 đồng), số tiền còn lại 4.000.000.000 đồng bị đơn phải trả cho nguyên đơn. Phía bị đơn cho rằng số tiền còn lại đã cấn trừ số tiền này vào khoản nợ vay ngân hàng thì lời trình bày của bị đơn không có cơ sở, bởi lẽ số tiền bán đất còn lại 4.000.000.000 đồng này là khoản tiền riêng của các nguyên đơn trong giao dịch dân sự giữa các nguyên đơn và bị đơn cùng góp tiền chung mua đất với nhau. Việc bị đơn tự cấn trừ vào khoản nợ vay Công ty TNHH VT… không có sự đồng ý của phía nguyên đơn là vi phạm vào sự thỏa thuận ban đầu giữa hai bên. Mặt khác, giả sử phía nguyên đơn có khoản nợ đối với Công ty TNHH VT… chưa thanh toán cho công ty nếu các bên muốn cấn trừ tiền cá nhân nguyên đơn vào khoản nợ công ty (khoản nợ vay này phía nguyên đơn không thừa nhận) thì giữa các bên sẽ có sự thỏa thuận với nhau. Phía bị đơn cho rằng đã có việc thỏa thuận giữa hai bên nhưng bị đơn không đưa ra được chứng cứ chứng minh. Việc bị đơn tự cấn trừ khoản nợ vay công ty không chuyển trả số tiền bán đất còn lại cho các nguyên đơn là vi phạm trách nhiệm nghĩa vụ trả tiền cho các nguyên đơn theo thỏa thuận. Do đó, phía nguyên đơn ông T, ông C yêu cầu bị đơn ông V phải trả cho ông T, ông C số tiền bán đất còn lại là 4.000.000.000 đồng thì có cơ sở chấp nhận. Đối với yêu cầu tính tiền lãi: tại phiên tòa, các nguyên đơn không yêu cầu bị đơn phải trả tiền lãi suất nữa vì nghĩ bị đơn cũng có công quản lý, chăm sóc đất nên xin rút đối với yêu cầu này và yêu cầu này sẽ được đình chỉ.

Với những lẽ trên, Tòa án nhân dân Tp Phan Thiết đã tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P.N.T và ông H.Q.C. Buộc ông N.Đ. V phải trả cho ông T và ông C số tiền là 4.000.000.000 (Bốn tỷ đồng). Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Dù kết quả bản án như thế nào, thì trước mắt tình bạn bao nhiêu năm của các đương sự trong bản án đều tan vỡ. Do vậy khi hợp tác làm ăn cần hết sức cẩn trọng, rõ ràng, “mất lòng trước, được lòng sau”, không thể chỉ bằng “niềm tin” để tránh xảy ra những chuyện đáng tiếc như trong vụ kiện này.

Nguồn Bình Thuận: https://baobinhthuan.com.vn/cau-chuyen-lam-an-tin-ban-co-the-bi-mat-bo-118266.html