Bánh chưng ơi!

Nếu thời nay bánh chưng tuy vẫn là vật linh thiêng - đồ cúng trong ngày tết nhưng nó cũng là thứ đồ ăn bình thường khắp thành thị, làng quê hễ cần là có ngay.

Tương truyền đời vua Hùng thứ VI có ba kỳ tích.

Một là có vị anh hùng nhi đồng ở làng Phù Đổng giúp vua đánh thắng giặc Ân sau thành vị Thánh bất tử. Hai là, sau khi giặc Ân bị đuổi ra khỏi bờ cõi thì Lang Liêu, vị Hoàng tử thứ 18 được truyền ngôi báu vì làm ra 2 thứ bánh tượng trưng cho trời tròn, đất vuông, hội đủ ý nghĩa về công sinh dưỡng, đùm bọc của đấng sinh thành là bánh chưng và bánh dầy. Ba là, cũng trong đời vị vua may mắn đó, có nàng Mỵ Nương Thiều Hoa với biệt tài nói chuyện với chim và bướm nên nàng Thiều Hoa mới biết bướm nâu đẻ trứng thành sâu, sâu ăn lá dâu nhả ra tơ. Nàng bèn xin bướm tơ đó về dệt thành tấm, nàng gọi tấm đó là lụa, Thiều Hoa còn tôn trọng biết ơn nên gọi bướm là ngài và sâu là tằm. Nghề dệt vải ở xứ ta từ đó mà hình thành.

Hóa ra từ đời vua Hùng thứ VI đó cho đến mọi đời sau, khi khói lửa chiến tranh đã qua rồi, con người đều quay về lo hai nhu cầu lớn nhất của kiếp người là ăn và mặc là vậy.

Việc nàng Mỵ Nương Thiều Hoa phát minh ra nghề dệt xin được nói sau, giờ nói về phát minh mang tính ẩm thực kì vĩ của chàng Lang Liêu. Có nhà lý luận nói rằng, triết lý của dân tộc ta thể hiện ở thực hành. Còn các dân tộc ưa lý thuyết thì họ có những học giả kì tài viết hàng pho sách dầy cộp để xiển dương triết lý của dân tộc họ. Với dân tộc ta cứ nhìn vào cách làm ăn, sinh sống, đối xử của con người với nhau, người sáng dạ sẽ nhận ra những triết lý cực kì sâu sắc.

Chàng Lang Liêu có lẽ là một trong những vị triết gia thực hành đầu tiên của xứ ta. Không phải ngẫu nhiên chỉ là hai thứ bánh chủ yếu dùng để ăn mà ở đó người ta nhìn thấy đất trời bao la, rừng núi, sản vật; nhìn thấy công lao trời biển của cha mẹ. Người con là Lang Liêu giỏi như vậy thì người cha là vua Hùng đời thứ VI cũng thuộc hạng kì tài. Ngài không kì tài thì làm sao đọc thấu được những triết lý sâu sa, thâm hậu được chứa đựng trong hai thứ bánh đơn giản là bánh chưng và bánh giầy.

Chỉ lấy gạo, thịt hàng ngày, lạt tre bình thường, quen thuộc để làm nên, khiến thứ quà bình dị mà nuôi sống con người đó vượt qua mọi thứ vật dâng sơn hào hải vị cùa hàng chục vị hoàng tử khác. Cũng chính vì sự kì tài của cha con vua Hùng nên hai thứ bánh đơn giản nhưng kì diệu mang cả hương hoa, sản vật nước Nam, ý nghĩa triết lý sâu sa của đất trời đó nên mới tồn tại suốt lịch sử phát triển hơn 4.000 năm. Sự tồn tại gần như vĩnh cửu đó bất chấp 1000 năm xứ Việt ta nằm dưới sự cai trị của triều đại Trung Hoa với đủ luật lệ hà khắc, dã man hòng tiêu diệt văn hóa, bản chất Việt, biến dân ta thành những ngộ, những nỉ, những mũ bình thiên và đuôi sam loằng ngoằng.

Về bánh giầy tròn tượng hình cho trời cũng xin dành để dịp khác nói. Còn năm Quý Mão này xin được nói kĩ về bánh chưng vuông vức tượng hình của đất mẹ. Ý nghĩa sâu sắc, triết lý cao siêu của bánh chưng thì đã nói ở trên, nhưng ngay cả khi gói trọn đủ đầy sự cao siêu, sâu sắc thì bánh chưng nói đi nói lại vẫn là một thứ thực phẩm mà theo tục lệ cha ông truyền lại từ hơn 4.000 năm. Thứ bánh cao quý này thường được đẩy lên cao trào vào dịp tết và trở thành vật không thể thiếu trong mâm cỗ cúng giao thừa và trong ba ngày tết.

Vào thời buổi thương mại hiện nay thì không chỉ ngày tết mà ngày thường “ra ngõ ta cũng gặp bánh chưng”. Và không ít vị còn hứng lên muốn đưa bánh chưng thành một dạng kỉ lục. Chẳng thế mà năm Giáp Ngọ (2014) người ta gồng mình lên làm ra chiếc bánh chưng nặng 4,3 tấn có cạnh dài 2,5 mét và chiều dày của bánh tới 60 cm để dâng lên vua Hùng nhân ngày giỗ Tổ. Chẳng biết trên cao xanh vua Hùng có thấu lòng thành của con cháu không hay ngài bật cười vì sự quá trớn của đám hậu duệ háo danh.

Nếu thời nay bánh chưng tuy vẫn là vật linh thiêng - đồ cúng trong ngày tết nhưng nó cũng là thứ đồ ăn bình thường khắp thành thị, làng quê hễ cần là có ngay. Còn thời bao cấp thì có được tấm bánh chưng để dâng lên tổ tiên, cha mẹ là cả một kì công.

Làng tôi tên nôm là làng Chèm, tên chữ là Thụy Phương, một thủa thuộc Phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông mà đầu thế kỉ 20, hai cha con ông Hoàng Cao Khải, Hoàng Trọng Phu dân xứ Nghệ thay nhau làm Tổng đốc. Riêng ông Hoàng Trọng Phu tổng đốc con, năm 1939 còn đưa 39 người của Phủ Hoài Đức gồm dân Tứ tổng, Nghi Tàm, làng hoa Ngọc Hà mang cả củ hoa lay ơn, các hạt giống hoa và rau vào trồng ở tại Đà Lạt để Đà Lạt giờ đây thành một thành phố hoa. Chính dân Hà Nội ta đã làm nên Đà Lạt hoa ngày nay. Việc này tôi cũng xin hẹn bạn đọc vào một dịp khác.

Trở lại làng Chèm quê tôi. Khi tiếp quản thủ đô thì lại thuộc Quận 5 ngoại thành Hà Nội, rồi thuộc huyện Từ Liêm, và nay thì là một phường nội thành thuộc quận Bắc Từ Liêm. Niềm tự hào của dân Chèm là quận này lấy hình ảnh bốn cột trụ nghi môn ngoại của đình làng tôi làm biểu tượng cho quận. Dù thuộc đơn vị hành chính nào thì làng tôi vẫn được xếp là một trong những làng cổ của Đại Việt nằm bên bờ sông Cái có tên chữ là Hồng Hà. Cho đến ngay cả bây giờ, tuy ruộng đồng đa phần đã thành phố xá, cửa hàng cửa hiệu lấp lóa tủ kính và biển quảng cáo nhưng vẫn còn dăm, sáu hộ và lác đác vài thửa ruộng phần trăm. Bởi lẽ đó nên làng tôi vẫn giữ nguyên chất là làng bán công bán thương.

Thủa bao cấp, khi tết đến, dân trong làng thuần nông thì rập rịch tát ao bắt cá ăn tết. Rồi một nhà thay cho vài nhà làm đơn ra ủy ban xin đụng lợn. Chờ đến 27, 28 tết, đàn ông mấy nhà đụng lợn trong lúc các bà vợ ra bến phà Chèm xem có bè lá dong nào về để gói bánh. Thời kì đầu dân phi nông nghiệp làng tôi thuộc diện ngoại thành chưa được cấp bìa chất đốt cùng xăm xăm ra bến phà cùng dân nông nghiệp tranh nhau mua lá dong, tranh thủ kiếm ít nín, ít đai trên các bè gỗ, bè giang nứa từ miền ngược mang bưởi, lá dong đậu đầy bến phà kéo ngược đến tận cửa đình, kéo xuôi xuống tận Ngự bến. Bến ấy ngày xưa vua đi tuần thú đã từng dừng thuyền rồng ở đấy nên mới có tên như thế. Lá dong mua được rồi, bà con mang ra bến rửa, đãi đỗ, gạo.

Làng tôi trước ngực làng có dòng sông Cái, bên cạnh là dòng sông Đào (ngày nay gọi là sông Nhuệ). Thập niên đầu của thế kỉ 20, người Pháp cho xây Trung thủy nông nối sông Đào với sông Cái để điều hòa mực nước cho hai con sông. Mùa nước cường thì mở cống cho sông Cái đỡ ứ nước, mùa khô cũng mở cống cho nước sông Cái chảy vào sông Nhuệ lấy nước cho dân quanh vùng cấy cầy. Hồi bé tôi còn nghe các cụ ở làng kể người vẽ kiểu cho Trung thủy nông Chèm - Dân làng tôi gọi nôm là Cầu Sông - là một bà đầm còn trẻ mà rất xinh, tóc vàng như rơm nếp tháng mười, mỗi bận về trông nom việc xây công trình là y như rằng xuống chợ Chèm ăn ốc vặn luộc.

Vì có sông Đào chảy bên cạnh làng nên vào cuối thập niên 50 của thế kỉ trước - trùng với thời gian xây đại thủy nông Bắc Hưng Hải - làng tôi được nhà nước cho xây trạm bơm lấy nước vào đồng Chèm, Vẽ, Noi, Cáo… Con mương dẫn nước được đào do sức dân của mấy làng, làng Chèm ở khu vực đầu mương đó. Vào vụ lúa, nước bơm mỗi ngày một lần vào lúc xẩm tối. Những lúc đó trẻ con làng tôi là thích nhất, tha hồ bơi lội, úp cá… còn các bà, các chị thì tranh thủ mang quần áo, chiếu chăn ra giặt rũ. Dịp sắp tết thì hai bờ mương xanh biếc lá dong đi rửa, vàng nhạt đỗ, trắng xóa gạo nếp mang ra đãi… Cho đến bây giờ nhắc lại chuyện này, trong trí tưởng tượng của tôi vẫn vang lên tiếng đập chiếu, tiếng hỏi han: “Năm nay nhà bà gói mấy ca gạo?”. “Năm nay thêm thằng cháu con bố cả, nhưng chưa đầy năm nên tôi tính cứ làm độ 25 rộp, ăn thông đến rằm tháng giêng”. Dân phi nông nghiệp ngoài đê thì mang lá dong ra bến sông Hồng. Vừa rửa lá dong, vừa đãi gạo, đãi đỗ các chị, các bà vừa ngâm ngợi Đồi thông hai mộ: “Anh Đinh Lăng giờ đây đâu nhỉ? Anh của em yêu quý nhất đời”.

Nói gì thì nói viêc gói bánh chưng hồi tôi còn bé ở làng dù đã chớm khó khăn những nó vẫn lưu giữ ít nhiều kỉ niệm thoang thoảng chất thơ hoài niệm, còn khi tôi đã có gia đình, đi làm vào những năm của thập niên 80, 90 của thế kỷ trước mới thấy có được bánh chưng vào dịp Tết cho vợ con thật nan giải. Thời gian thập niên 80 chế độ bao cấp đang ở đỉnh cao, giơ đủ nanh vuốt nghiệt ngã của nó.

Từ miếng thịt, cân gạo nếp, tờ lá dong, dầu than đun, hộp mứt, chai rượu cam hay chanh… đều nằm trong tiêu chuẩn hiển hiện trên những ô phiếu. Nếu chỉ tính vào tiêu chuẩn thì việc có được chiếc bánh chưng cúng tổ tiên trong dịp Tết thật kì công. Chẳng thế mà nhiều cơ quan đận ấy phải phát sinh nhiều sáng kiến liên hệ với nhiều cơ sở nông trường, nông nghiệp để cải thiện thêm gạo, thịt cho anh em.

Tiêu chuẩn lá dong, vợ tôi mang phiếu chất đốt ra xếp hàng gần trọn buổi sáng mới mua được. Tiêu chuẩn gạo, thịt cũng vậy. May là nhiều nhà máy, công ty hồi đó quý anh em phóng viên, nên giám đốc các đơn vị đó ưu ái coi nhà báo cũng như anh em công nhân. Có những tết, một buổi sáng tôi đạp xe đến khoảng năm, sáu cơ sở để nhận tiêu chuẩn tết như công nhân nhà máy là xâu thịt có đủ thịt xương, có chỗ có cả lòng, gan. Một đêm bỗng nhiên tỉnh giấc, nhìn đồng hồ đã 3 giờ sáng, vẫn thấy mùi lửa của bếp dầu và mùi mỡ rán. Thấy tôi đi ra, bà vợ giáo viên của tôi vặn vẹo lưng vì quả mói, nhưng mặt thì tươi rói khẽ thì thào với tôi giọng hoan hỉ: “mừng quá bố nó ạ, tất cả chỗ thịt các bác ấy cho hôm nay em rán được ba liễn mỡ”. Nghe vợ nói, tôi chợt nhớ, ca sĩ gạo cội của Đài Tiếng nói Việt Nam lên hát tại công trường xây dựng cầu Thăng Long khi về được giám đốc cầu tặng liễn mỡ.

Cô ca sĩ mừng rỡ, cám ơn mãi. Thế mới biết, thời bao cấp mỡ ăn quý đến thế nào …Đủ lá dong, thịt, gạo, đỗ rồi nhưng tôi lại vụng thối vụng ròi không biết gói bánh chưng. Đã có lần được ông cậu hướng dẫn kĩ càng từ múc gạo, đỗ, đặt thịt, bẻ góc lá ra sao, nhưng khi tôi bắt tay vào gói thì cái bánh của tôi hệt như đùm mắm tôm khiến vợ con cười rũ. Từ đó tôi cạch không gói bánh chưng nữa. Đang bí chợt nhớ gã bạn tôi là nhà báo, nhà thơ Lê Quang Trang cùng khu tập thể, dân Bắc Ninh đồng môn với tôi gói bánh rất thiện nghệ. Tôi tốc sang, đặt vấn đề. Nhà thơ Trần Thị Thắng vợ Lê Quang Trang hỉ hả: “Tưởng gì chứ việc ấy vô tư đi. Anh Trang nhà em có lần còn gói bay hơn nửa tạ gạo mà trăm cái bánh y hệt nhau. Hôm nay chắc bà bên ấy cũng đau dừ lưng vì đi xếp hàng mua tiêu chuẩn tết đúng không. Chị em tôi làm rồi nên gói xong đến lúc nấu bánh hai ông trông đấy. Nấu bánh dưới sân nhà tập thể đấy”. Nhìn gã bạn phóng viên Báo Nhân Dân uốn góc bánh vuông thành sắc cạnh tôi phục lăn. Còn bốn đứa trẻ con nhà tôi nhà Trang, Thắng thì hau háu bên chiếu gói bánh, liên tục nhắc “nhớ để dành các thứ để gói cho bọn con bốn cái bánh chưng con”.

Bây giờ gần 40 năm trôi qua, hai đứa con nhà tôi, hai đứa con nhà Trang Thắng đã thành cán bộ nhà nước, tuổi U50 không biết chúng còn nhớ hình ảnh gói bánh chưng thời đó không nhỉ?

Nguyễn Hiếu

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/banh-chung-oi-239515.html