Bài văn mẫu phân tích truyện ngắn Thuốc - Lỗ Tấn

Truyện ngắn Thuốc là tác phẩm nước ngoài số ít trong văn học 12. Bài phân tích dưới đây sẽ giúp các em hiểu thêm các tầng ý nghĩa của tác phẩm, giúp các em dễ phân tích mang lại điểm cao hơn.

Mục lục

1. Tìm hiểu chung về tác phẩm Thuốc của Lỗ Tấn
Đôi nét về tác giả
Đôi nét về tác phẩm
2. Dàn ý phân tích truyện ngắn Thuốc
Mở bài
Thân bài
Kết bài
Một số đề phân tích nội dung tác phẩm thuốc của nhà văn Lỗ Tấn
Đề 1: Nêu ý nghĩa nhan đề của truyện ngắn Thuốc - Lỗ Tấn
Đề 2: Hãy làm rõ hơn về hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người trong truyện ngắn Thuốc
Đề 3: Anh chị hãy viết bài văn Phân tích truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn trong chương trình văn học lớp 12.

1. Tìm hiểu chung về tác phẩm Thuốc của Lỗ Tấn

Đôi nét về tác giả

- Lỗ Tấn (1881 - 1936), tên khai sinh là Chu Chương Thọ, sau đổi thành Chu Thụ Nhân.

- Quê ở phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, miền Đông Nam Trung Quốc.

- Năm 13 tuổi, ông chứng kiến cảnh người cha lâm bệnh, vì không có thuốc mà chết, nên ôm ấp nguyện vọng học nghề thuốc. Do học giỏi nên được nhận học bổng của Nhật.

- Ông đã chọn học ngành Y để chữa bệnh cho người nghèo, ốm mà không có thuốc, chết vì ngu dốt và mê tín… như cha mình.

- Trong một lần tình cờ xem phim, Lỗ Tấn những người Trung Quốc khỏe mạnh, hăm hở xem quân Nhật chém một người Trung Quốc làm gián điệp cho quân Nga (thời kỳ chiến tranh Nga - Nhật, 1901 - 1905). Ông giật mình nhận ra rằng: “Chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần”. Từ đó, Lỗ Tấn chuyển sang hoạt động văn nghệ.

- Bút danh Lỗ Tấn được ghép từ họ mẹ (Lỗ Thụy) và chữ Tấn thành (nghĩa là “Đi nhanh lên!”).

- Nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc - Quách Mạt Nhược từng nói: “Trước Lỗ Tấn chưa hề có Lỗ Tấn, sau Lỗ Tấn, có vô vàn Lỗ Tấn”.

- Các tác phẩm của Lỗ Tấn chủ yếu phanh phui các “căn bệnh tinh thần” của quốc dân, lưu ý mọi người tìm phương thức chạy chữa.

- Một số tác phẩm như:

Nhật ký người điên (truyện ngắn, 1918)

AQ chính truyện (truyện vừa, 1921 - 1922)

Gào thét ( tập truyện ngắn, 1922)

Bàng hoàng (tập truyện ngắn, 1925)

Cỏ dại (tập tạp văn, 1924)

Đôi nét về tác phẩm

Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Thuốc” của Lỗ Tấn viết năm 1919, đúng vào lúc cuộc vận động Ngũ tứ bùng nổ.

- Truyện nói về căn bệnh “đớn hèn” của dân tộc Trung Hoa do nhân dân chìm đắm trong mê muội, lạc hậu còn những người cách mạng thì hoàn toàn xa lạ với nhân dân. Từ đó, nhà văn muốn cảnh báo: Người Trung Quốc cần suy nghĩ nghiêm túc về một phương thuốc để cứu dân tộc.

Bố cục

- Phần 1 (Từ đầu đến “Cổ…Đình Khẩu”): Đêm thu gần sáng, lão Hoa đi mua thuốc về chữa bệnh cho con

- Phần 2 (Tiếp đó đến “đắp cho con”): Cảnh vợ chồng lão Hoa cho con uống thuốc

- Phần 3 (Tiếp đó đến “Điên thật rồi”): cuộc bàn luận trong quán trà về phương thuốc chữa bệnh lao và về Hạ Du

- Phần 4 (Còn lại): cảnh hai bà mẹ viếng mộ con

Tóm tắt

Vợ chồng Hoa Thuyên là chủ một quán trà có con trai là thằng bé Thuyên bị bệnh lao đã lâu, không có cách gì chữa khỏi. Được lão cả Khang mách nước rằng, ăn bánh bao tẩm máu người chết thì sẽ hết bệnh lao. Lão Hoa Thuyên bèn tìm đến cai ngục rồi lấy bánh bao chấm vào máu của tử tù vừa bị chém đầu, để về cứu con. Khi đứa con đang ăn bánh thì những người khách vào quán trà bàn tán về người bị chém sáng nay, thì ra đó là Hạ Du người chiến sĩ cách mạng dũng cảm, kiên cường, sẵn sàng hi sinh bản thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và đất nước Thằng bé Thuyên sau đó vẫn chết, mộ của thằng bé và Hạ Du được chôn gần nhau. Vào tiết thanh minh, hai người mẹ gặp nhau khi đi viếng con. Hai người buồn bả, xót xa cho con mình. Họ đồng cảm cho nhau vì cùng cảnh ngộ. Và họ bất ngời vì trên mộ Hạ Du có vòng hoa hồng và trắng xen kẽ nhau, hai bà mẹ tự hỏi “ thế là thế nào”.

Phương thức biểu đạt: Tự sự, biểu cảm

Thể loại: Truyện ngắn

Ngôi kể: Ngôi thứ ba

Giá trị nội dung

- Lỗ Tấn được tôn vinh là “linh hồn dân tộc” vì nhà văn đã đau nỗi đau của dân tộc Trung Hoa thời cận đại: nhân dân thì “ngủ say trong một cái nhà bằng hộp sắt”, còn người cách mạng thì “bôn ba trong chốn quạnh hiu”.

- Truyện phơi bày tình trạng ngu muội, vô cảm của người dân Trung Quốc trước Cách mạng Tân Hợi (1911) và thể hiện lòng khâm phục, xót thương đối với nhà cách mạng đã hi sinh

- Truyện ngắn Thuốc đã thể hiện một nội dung sâu sắc: một dân tộc chưa ý thức được bệnh tật của chính mình chưa có được ánh sáng tư tưởng cách mạng thì dân tộc đó vẫn còn chìm đắm trong mê muội

Giá trị nghệ thuật

- Sử dụng thành công thể loại nghị luận với luận điểm, luận cứ, luận chững rõ ràng, xác thực.

- Vận dụng sáng tạo các thao tác lập luận so sánh, bác bỏ...

- Lời văn ngắn gọn, súc tích, giàu sức thuyết phục.

- Cốt truyện đơn giản, cách viết cô đọng, súc tích

- Hình ảnh mang tính biểu tượng, chi tiết nghệ thuật đặc sắc, giàu ý nghĩa

2. Dàn ý phân tích truyện ngắn Thuốc

Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Lỗ Tấn

- Tên thật là Chu Thụ Nhân (1881 - 1936)

- Quê ở Thiệu Hưng - Chiết Giang - Trung Quốc

- Từ năm 13 tuổi vì chứng kiến cha mình do không có tiền chữa bệnh nên ông có ước mơ trở thành thầy thuốc để giúp người nghèo

- Ông được cử sang Nhật du học, nhưng rồi ông nhận ra ngoài các bệnh thể xác thì việc chữa bệnh tinh thần càng quan trọng hơn

- Ông quyết định theo đuổi nghiệp văn học để có thể đem tác phẩm của mình thức tỉnh nhiều người hơn

- Ông từng được nhiều người Trung Quốc ca ngợi là linh hồn của dân tộc

- Ngòi bút của ông chủ yếu hướng tới mục đích vạch trần những thói hư tật xấu, mặt tối của xã hội

- Một số tác phẩm tiêu biểu của ông: AQ chính truyện, Thuốc, Cố hương,...

Thân bài

a. Giới thiệu về tác phẩm

- Tác phẩm “Thuốc” được nhà văn Lỗ Tấn viết năm 1919

- Đó là thời gian cuộc vận động Ngũ Tứ nổ ra

- Ý nghĩa nhan đề “Thuốc”

+ Nghĩa đen: là chỉ phương thuốc chữa bệnh Lao đang được nhiều người truyền miệng là thuốc thần. Đây là loại thuốc chưa có từng có người thành công, chưa có cơ sở khoa học nào nhưng vẫn được những người mê tín coi như là thuốc tiên, sẵn sàng bỏ công sức tiền bạc để tìm mua.

+ Theo nghĩa tường minh, đây còn là căn bệnh tinh thần, là sự mê muội mê tín lạc hậu mà người dân thời đó mắc phải. Không chỉ là y tế lạc hậu mà còn là con người thiếu kiến thức. Những người có kiến thức, đã được giác ngộ cách mạng lại xa dân, không trò chuyện, không làm cho dân hiểu mình.

- Chính vì vậy, có thể hiểu Thuốc vừa là thuốc để chữa căn bệnh Lao nhưng cũng là thuốc độc khiến cho người dân ngày càng u mê hơn, lạc hậu hơn

- Nhan đề chỉ có một chữ thôi nhưng cũng đủ để nói lên sự lo lắng của tác giả với thực trạng thời đại và lời cảnh tỉnh mà Lỗ Tấn muốn nhắc nhở người dân.

b. Nhân vật Hạ Du

- Tác giả không để người chiến sĩ Hạ Du xuất hiện trực tiếp hay có bất kỳ lời thoại nào mà chỉ qua lời nói chuyện của những nhân vật khác

- Hạ Du là người chiến sĩ của đợt đầu cách mạng, anh được giác ngộ sớm, sẵn sàng làm quân tiên phong dù biết đó là con đường rất nguy hiểm. Anh biết rằng thời điểm đó nếu theo cách mạng thì nghĩa là anh đã đặt một chân vào cửa tử, là con đường không có lối quay lại với sự sống, với gia đình

- Nhưng thời kỳ đó không ai hiểu những việc anh làm, những điều mà anh nói. Trong đó có cả hàng xóm thân thiết, thậm chí ngay cả mẹ anh cũng không hiểu

- Anh hy sinh thân mình cho đất nước cho nhân dân. Nhưng vì sự mê tín của mọi người mà người ta lại lấy máu của anh làm bánh bao - dùng như phương thuốc chữa bệnh lao.

-> Anh là người chiến sĩ cách mạng dũng cảm, yêu nước nhưng lại cô đơn trong chính dân tộc mình. Hạ Du chính là biểu tượng cho một thế hệ chiến sĩ của cách mạng năm 1911 nổ ra để đánh đổ phong kiến thực dân. Nhưng cuộc kháng chiến thất bại hoàn toàn do cách mạng nhưng thiếu nhân dân.

c. Thái độ của người dân khi thấy cái chết của người chiến sĩ Hạ Du

- Không có mấy thương tiếc, phần lớn dân chúng chỉ tò mò đổ ra xem buổi hành hình của người chiến sĩ Hạ Du.

- Sau khi anh chết, người dân vẫn tụ tập bàn tán trong quán trà của Lão Hoa trong thái độ miệt thị, khinh miệt,

-> Đây chính là minh chứng cho sự xa dân của cuộc cách mạng khi họ chiến đấu mà không ai hiếu. Cũng là lời vạch trần của tác giả Lỗ Tấn về sự mê tín, thiếu hiểu biết của nhân dân thời đó.

d. Cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ cùng đi thăm mộ con

- Đây là cuộc vô tình gặp mặt của mẹ Hạ Du và bà Hoa. Một người mất con vì căn bệnh Lao, vì phương thuốc bánh bao tẩm máu người và một người mất con vì chiến tranh, vì thời cuộc.

- Họ gặp nhau tại nghĩa trang khi cả Thuyên và Hạ Du đều mất vào mùa thu năm trước. Thanh minh năm sau, hai người mẹ cùng lúc đến thăm mộ con.

- Con đường mòn phân chia nghĩa trang thành hai khi như là biểu tượng của sự lạc hậu của tập quán và sự đổi mới trong suy nghĩ của con người. Hai người mẹ tuy không thân thiết nhưng cùng nỗi đau, cùng sẻ chia với nhau.

- Vòng hoa trên mộ của người chiến sĩ Hạ Du như thể hiện niềm hy vọng của tác giả với kháng chiến, với thời đại. Bởi lẽ đây chính là minh chứng cho việc đã có người hiểu được con đường Hạ Du đi, con đường cách mạng kêu gọi nên mới thể hiện sự đồng cảm qua vòng hoa. Vòng hoa này cũng như là món quà của tác giả, là sự cảm thông, trân trọng với những người chiến sĩ luôn kiên cường dũng cảm dù biết muôn ngàn nguy hiểm đang chờ mình.

Kết bài

- Tóm lại giá trị nội dung truyện ngắn.

- Qua truyện ngắn “Thuốc”, nhà văn Lỗ Tấn đã vạch ra rõ ràng về căn bệnh thời đại, về sự mê tín lạc hậu vẫn đang còn trong suy nghĩ của người dân.

- Căn bệnh tinh thần này còn nguy hiểm, khó chữa hơn những căn bệnh thể xác khác nên tác giả cũng đang hy vọng một tương lai tốt đẹp hơn vào sự đổi thay của con người.

- Cách viết khái quát, trần thuật một hiện thực xã hội cùng với những hình ảnh chân thực cô đọng khiến cho xã hội thời đó được hiện ra rõ nét trước mắt người đọc.

Một số đề phân tích nội dung tác phẩm thuốc của nhà văn Lỗ Tấn

Đề 1: Nêu ý nghĩa nhan đề của truyện ngắn Thuốc - Lỗ Tấn

Nhan đề “Thuốc” mang một ý nghĩa đặc biệt. Đây là hình ảnh có nhiều tầng nghĩa. Ở tầng nghĩa thứ nhất (nghĩa tường minh), thuốc là phương thuốc truyền thống dùng bánh bao tẩm máu người để chữa bệnh lao trong dân gian. Tầng nghĩa này hướng đến chủ đề chống mê tín dị đoan, phê phán cách chữa bệnh u mê, lạc hậu lúc đó của Trung Quốc. Ở tầng nghĩa thứ hai sâu xa hơn (nghĩa hàm ẩn), thuốc có ý nghĩa khai sáng. Tác giả muốn mọi người giác ngộ bánh bao tẩm máu người đó là thứ thuốc độc. Người dân Trung Quốc phải tỉnh táo để nhận ra điều đó, không được “ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”. Ở tầng nghĩa thứ ba, thoát ra khỏi ý nghĩa cứu chữa hay khia xác là hành động. Tác giả thúc giục con người phải tìm một phương thuốc làm cho quần chúng giác ngộ cách mạng và làm cho cách mạng gắn bó với quần chúng hơn.

Đề 2: Hãy làm rõ hơn về hình tượng "chiếc bánh bao tẩm máu người" trong truyện ngắn Thuốc

Trong chuyện, chiếc bánh bao tẩm máu người là một bài thuốc trị bệnh lao quái đản, kinh dị mà ai cũng cho là hiệu nghiệm. Máu người cách mạng tiên phong ngã xuống vì lý tưởng cứu quốc đã bị đem bán cho những người mê muội mua về tẩm bánh bao. Lỗ Tấn phê phán cách chữa bệnh lạc hậu, mê tín dị đoan đồng thời chỉ ra sự mê muội đớn hèn của người dân về chính trị và sự xa rời quần chúng của những người cách mạng. Từ đó cảnh báo người Trung Quốc phải suy nghĩ nghiêm túc về một phương thuốc để chữa những căn bệnh này. Nhân vật Hạ Du là hình ảnh tượng trưng của cách mạng Tân Hợi. Hạ Du xuất hiện gián tiếp qua lời bàn tán của mọi người. Ở Hạ Du, nổi bậc với phẩm chất của một chiến sĩ cách mạng yêu nước, có lí tưởng đúng đắn sớm giác ngộ cách mạng. Anh dũng cảm, hiên ngang, xả thân vì nghĩa lớn. Mục đích của anh hết sức cao cả nhưng vẫn còn xa rời quần chúng nên rơi vào bi kịch. Qua hình tượng Hạ Du, tác giả bày tỏ sự kính trọng và lòng thương cảm sâu xa đối với những chiến sĩ tiên phong của cách mạng Tân Hợi. Bi kịch của Hạ Du còn là lời cảnh tỉnh những người Cách mạng tiên phong về việc xa rời quần chúng của họ.

Đề 3: Anh chị hãy viết bài văn Phân tích truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn trong chương trình văn học lớp 12.

Lỗ Tấn (1881 – 1936) tên thật là Chu Thụ Nhân, quê ở phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, ông là nhà văn cách mạng thế hệ đầu tiên có phương châm và mục đích sáng tác đúng đắn là dùng ngòi bút để phanh phui các “căn bệnh tinh thần của quốc dân” – một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho xã hội Trung Quốc trở nên trì trệ và suy thoái. Sự nghiệp sáng tác của Lỗ Tấn gồm 3 tập truyện ngắn, 16 tập tạp văn với các đề tài chính trị, xã hội, văn chương… ông xứng đáng là ngọn cờ đầu của văn học Trung Quốc hiện đại.

Truyện ngắn Thuốc sáng tác năm 1919 là tác phẩm thể hiện khá rõ những băn khoăn, day dứt của Lỗ Tấn trước những vấn đề quan trọng của xã hội Trung Quốc đương thời. Tác giả phê phán sự lạc hậu, mê muội đáng thương của số đông dân chúng và thái độ xa rời thực tế xa rời quần chúng của những người khởi xướng và tham gia cuộc cách mạng Ngũ Tứ lúc bấy giờ. Đồng thời ông cũng gửi gắm trong truyện niềm hi vọng vào tương lai Trung Quốc sẽ có một cuộc cách mạng triệt để của quần chúng và vì quần chúng. Bối cảnh của truyện là xã hội tăm tối, ngột ngạt dưới ách thống trị của triều đình Mãn Thanh trước khi nổ ra phong trào cách mạng Ngũ Tứ – sự kiện mở đầu cho lịch sử Trung Quốc hiện đại.

Sự xâm chiếm và can thiệp thô bạo của một số đế quốc như Anh, Pháp, Mĩ, Nhật đã biến Trung Quốc thành một nước nửa phong kiến, nửa thuộc địa. Thời vàng son của các triều đại vua chúa đã ở vào dĩ vãng. Thay vào đó là một xã hội đình trệ, suy thoái mà theo nhận định của Lỗ Tấn : So với tiến bộ thì đình trệ cũng gần với con đường diệt vong rồi.

Nội dung truyện xoay quanh chủ đề Thuốc – một thứ “thuốc” kinh khủng, gớm ghiếc hiếm có xưa nay. Đó là bánh bao tẩm máu tươi của những kẻ tử tù bị chém đầu, đem nướng lên cho người bệnh ăn. Thiên hạ đồn rằng thứ thuốc ấy chữa khỏi được cà những bệnh thuộc “tứ chứng nan y” như phong, lao, cổ, lại. Vợ chồng lão Hoa chủ quán trà gom góp số tiền tích cóp đã lâu và lão Hoa đích thân đến tận pháp trường để mua “thuốc” cho con trai bị bệnh lao nặng, với hi vọng là nó sẽ khỏi bệnh. Nhưng đau xót thay, máu của tử tù chết chém không chữa được bệnh lao! Thế là tiền mất tật mang, cuối cùng đứa con trai độc đinh của vợ chồng lão Hoa vẫn chết.

Ngòi bút của Lỗ Tấn đã đề cập tới một vấn đề đáng lo ngại là tập quán chữa bệnh phản khoa học – một trong những biểu hiện của tình trạng lạc hậu về mặt khoa học ở Trung Quốc, cũng như trong dời sống tinh thần của dân chúng mà nhân vật Thuyên chỉ là một trong muôn ngàn nạn nhân của tập quán hủ lậu ấy.

Tuy nhiên, Lỗ Tấn còn kín đáo gửi gắm dụng ý của mình trong nghĩa hàm ẩn của truyện. Con bệnh trầm kha không phải là anh chàng Thuyên tội nghiệp mà lò đầu óc mê muội của vợ chồng lão Hoa nói riêng và số đông dân chúng nói chung. Theo nhận xét của tác giả thì cả xã hội Trung Quốc thời ấy giống như một người mắc bệnh nặng, đòi hỏi phải có một thứ “thuốc” đặc trị thì mới có thể chữa khỏi ; đồng thời ông cũng chỉ ra rằng con đường đi của dân tộc Trung Hoa lúc này đã lâm vào ngõ cụt, cần phải nhanh chóng phát quang mọi con đường mới.

Truyện ngắn Thuốc giống như một vở kịch ngắn gồm bốn cảnh:

Cảnh thứ nhất : Lão Hoa mang tiền đến pháp trường để mua chiếc bánh bao tẩm máu tử tù.

Cảnh thứ hai: Vợ chồng lão Hoa cho con trai (Thuyên) ăn bánh bao tẩm máu nướng.

Cảnh thứ ba: Khách khứa tụ tập bàn tán ở quán trà lão Hoa.

Cảnh thứ tư: Tiết Thanh minh, mẹ Thuyên ra thăm mộ con, tình cờ gặp mộ của tử tù bữa trước.

Mở đầu tác phẩm, tác giả tả cảnh lão Hoa chủ quán trà dậy thật sớm, bảo vợ đưa tiền để đến pháp trường mua chiếc bánh bao tẩm máu tử tù về làm thuốc chữa bệnh lao cho đứa con trai duy nhất. Lỗ Tấn có cách kể chuyện xen miêu tả rất tự nhiên, sinh động. Nhiều chi tiết nhỏ nhưng lại có tác dụng kết nối, tạo mạch cho câu chuyện tiếp diễn theo trình tự thời gian. Chẳng hạn tràng ho không dứt của thằng Thuyên như thúc giục lão Hoa nhanh chóng lên đường lúc trời chưa sáng; hay lòng thương con và niềm hi vọng con sẽ khỏi bệnh khiến cho lão Hoa bước nhanh hơn.

Lão Hoa mê muội tin vào thứ thuốc chữa bệnh lao quái dị: bánh bao tẩm máu tử tù nên cố lách vào đám đông hỗn độn đang xô đẩy nhau ào ào để mua cho bằng được thứ mà lão coi như thuốc tiên, cổ thể cứu mạng đứa con trai của mình. Thứ “thuốc” đáng sợ và hiếm có ấy được rao bán như bán các món hàng bình thường khác. Ngòi bút tả thực sắc sảo của Lỗ Tấn khiến người đọc cảm thấy như cảnh tượng hãi hùng ấy đang diễn ra trước mắt.

Có một chi tiết mang ý nghĩa ẩn dụ là không phải chỉ một mình lão Hoa vội vàng đi mua bánh bao tẩm máu tử tù để chữa bệnh mà rất nhiều người khác cũng có ý định như lão. Qua chỉ tiết này, Lỗ Tấn muốn nói đến thực trạng đáng lo ngại: số đông dân chúng Trung Quốc đương thời vẫn tin vào những điều nhảm nhí không có cơ sở khoa học, bởi thói mê tín dị đoan đã tiêm nhiễm vào đầu óc họ, trở thành một căn bệnh tinh thần khó chữa.

Ở cảnh hai, niềm hân hoan, tin tưởng và hi vọng của lão Hoa mỗi lúc một dâng cao. Về đến nhà, lão cùng với vợ vội vàng chế biến “thuốc cải tử hoàn sinh” rồi cho con trai ăn chiếc bánh bao tẩm máu nướng đen thui. Thuyên cầm chiếc bánh lên nhìn, có cảm giác rất lạ không biết thế nào mà nói, như đang cầm tính mệnh của chính mình trong tay. Y bẻ đôi ra, rất cẩn thận…

Không bao lâu, chiếc bánh đã nằm gọn trong bụng… Lão Hoa đứng một bên, bà Hoa đứng một bên, trố mắt nhìn con như muốn rót vào người con một cái gì, đồng thời cũng muốn lấy ra một cái gì.

Tác giả đã thể hiện tài tình diễn biến tâm trạng của từng nhân vật trong đoạn văn này. Cha mẹ Thuyên nhìn con ăn chiếc bánh bao mà lòng khấp khởi hi vọng, tin rằng con sẽ nhanh chóng khỏi bệnh. Họ muốn rót vào người con sự sống, đồng thời cũng muốn lấy ra căn bệnh lao đáng sợ mà người đời đã liệt vào hàng “tứ chứng nan y”, ai mắc phải là cầm chắc cái chết. Vợ chồng lão Hoa là những nhân vật vừa đáng thương vì tình phụ tử, mẫu tử của họ thật cảm động, nhưng lại vừa đáng giận bởi họ mê tín đến ngu muội.

Hình ảnh đám đông trong quán trà của lão Hoa cũng phản ánh rất chân thực về “căn bệnh tinh thần” của người trung Quốc. Quán trà lão Hoa là nơi tụ họp thường xuyên của khách bình dân. Tại đây, lượng thông tin chẳng những rất phong phú mà còn rất thật.

Khách uống trà gồm một người râu hoa râm, cậu Năm Gù, bác cả Khang, một anh chàng hơn hai mươi tuổi… và một số người khác. Họ là những người thuộc số đống dân chúng Trung Quốc lúc bấy giờ. Quán trà của lão Hoa giống như xã hội Trung Quốc thu nhỏ.

Đám khách uống trà bàn tán xoay quanh hai sự kiện nóng hổi : Thứ nhất là chuyện lão Hoa mua được “thần dược”; thứ hai là chuyện Hạ Du bị chết chém. “Thuốc tiên” để trị “bệnh quỷ” mà người Trung Quốc vẫn tôn sùng lúc bấy giờ chính là bánh bao tẩm máu tử tù. Bánh bao thì luôn luôn có sẵn, nhưng còn máu tử tù ? Máu tử tù không sẵn nhưng cũng không phải là hiếm, chì cẩn có tiền là mua được, nhất là vào đúng dịp có tử tù bị chém. Lão Hoa có con mắc bệnh lao nặng, may mắn gặp ngay dịp Hạ Du bị chém đầu. Cho nên hôm ấy ở quán trà nhà lão Hoa, người ta chỉ bàn đến hai chuyện ấy cũng là điều dễ hiểu, vấn đề quan trọng ở đây là thái độ của họ trước hai sự kiện này ra sao ?

Về sự kiện thứ nhất, mọi người đều mừng cho lão Hoa đã may mắn mua được “thần dược” và họ đặt niềm tin tuyệt đối vào phương thuốc kì quái ấy. Chỉ trong một đoạn văn ngắn mà có tới sáu lần nhắc lại câu : Cam đoan thế nào cũng khỏi, giống lời khẳng định chắc chắn như đinh đóng cột.

Về sự Kiện thứ hai, mọi người đều tỏ thái độ khinh bỉ, dè bỉu và dùng những lời lẽ xấu xa nhất để gọi Hạ Du : tên phạm, thằng quỷ sứ, thằng nhãi con, thằng khốn nạn… Họ coi anh là giặc, là dám vuốt râu cọp, là điên. Họ cho rằng anh bị chém đầu là đích đáng. Họ hả hê như chính mình vừa trừ khử được một kẻ tội đồ. Khi nghe kể đến đoạn Hạ Du bị lão Nghĩa quản ngục đánh cho hai cái bạt tai vì dám rủ lão “làm giặc” thì họ thú quá, cứ nhao nhao nói nói cười cười. Trong khi đó, họ lại xuýt xoa khen cụ Ba đã sáng suốt đem nộp cháu mình cho nhà chức trách, vừa không bị mất đầu vì chứa chấp một tên phản nghịch, vừa được thưởng hai mươi lạng bạc.

Qua cuộc bàn luận của đám đông ở quán trà, Lỗ Tấn khéo léo phơi bày thực trạng tinh thần u mê tăm tối của phần lớn dân chúng Trung Quốc thời đó. Cách mạng Tân Hợi là một cuộc cách mạng không triệt để. Người dân chưa được tuyên truyền, giác ngộ nên họ coi những người làm cách mạng là làm giặc”. Họ càng không hiểu gì về mục đích cao cả của cách mạng.

Lỗ Tấn nhận thức rất rõ “Căn bệnh tinh thần” của người Trung Hoa đã đến mức trầm trọng. Đã đến lúc phải khẩn cấp tìm ra một phương thuốc “đặc hiệu” để chữa trị căn bệnh ấy. Nhưng đó là phương thuốc nào?

Lúc này, cách mạng Trung Quốc đang dò dẫm tìm đường, Lỗ Tấn cũng đang tìm đường, ông chưa thể đưa ra một giải pháp chính xác, nhưng ông đã dự cảm được một điểu gì đó. Dự cảm ấy phần nào được thể hiện qua hình tượng nhân vật Hạ Du.

Hạ Du tuy không dược tác giả miêu tả trực tiếp nhưng nhân vật này đóng vai trò quan trọng là mắt xích tiên kết toàn bộ câu chuyện và chi phối các sự kiện trong tác phẩm. Hạ Du là một chiến sĩ cách mạng có ý chí kiên cường, dám chấp nhận thử thách, hi sinh. Đến phút chót anh vẫn tuyên truyền cách mạng. Hạ Du bộc lộ nỗi đau xót trước tình trạng mê muội của dân chúng. Nhưng thật đáng buồn là ý chí, mục đích và hành động của anh lại bị mọi người hiểu một cách sai lạc. Cụ Đa là người thân cho rằng anh “làm giặc” nên đã tố giác anh để láy tiền thưởng. Dân chúng thì chờ anh bị chém đầu để lấy máu anh tẩm vào bánh bao làm thuốc chữa bệnh. Với những tôn đao phủ tàn bạo, tham lam thì máu Hạ Du là một món hàng đem lại lợi nhuận béo bở. Với đám dông dân chúng, Hạ Du là đối tượng để cho họ chế giễu và khinh bỉ. Thậm chí đến cả mẹ anh cũng không hiểu đúng về con trai mình.

Xây dựng nhân vật Hạ Du, tác giả vừa bày tò thái độ trân trọng và kính phục, vừa ngầm phê phán những người làm cuộc cách mạng Ngũ Tứ xa rời và chưa giác ngộ được quần chúng. Thật xót xa và đau đớn trước hình ảnh người chiến sĩ cách mạng không hòa hợp được với quần chúng và còn bị dân chúng nhìn bằng con mắt miệt thị và giễu cợt. Chính vì thế mà sự hi sinh của họ trở nên vô nghĩa.

Trong phần cuối của truyện, khung cảnh nghĩa địa được Lỗ Tấn miêu tả rất kĩ: Miếng đất dọc chân thành phía ngoài cửa Tây vốn là đất công. Ở giữa là con đường mòn nhỏ hẹp, cong queo, do những người hay đi tắt giẫm mãi thành đường. Đó cũng là cái ranh giới tự nhiên giữa nghĩa địa những người chết chém hoặc chết tù, ở về phía tay trái, và nghĩa địa những người nghèo, ở về phía tay phải. Cả hai nơi, mộ dày khít, lớp này lớp khác, như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ. Hình ảnh con đường mòn ở đây không chỉ đơn thuần là một ranh giới tự nhiên mà nó còn là ranh giới vô hình của lòng người, của những định kiến xã hội. Cảnh nghĩa địa trong đoạn văn mang nhiều ý nghĩa. Thứ nhất: Dư luận xã hội không hề có sự phân biệt giữa những người làm cách mạng hi sinh vì đất nước với những kẻ tội đồ. Như vậy thì những chiến sĩ cách mạng cũng bị coi là “giặc”. Thứ hai: số người bị chết chém hoặc chết tù cũng nhiều như số người bị chết vì nghèo đói. Hình ảnh những ngôi mộ ở nghĩa trang nhiều như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ là một hình ảnh so sánh mỉa mai, gợi lên thực trạng xã hội phong kiến Trung Hoa vừa đen tối vừa tàn bạo thời ấy.

Lỗ Tấn còn gửi gắm một hàm ý khác nữa trong hình ảnh con đường mòn chia đôi nghĩa địa: ranh giới giữa người nghèo và người cách mạng rất gần. Những người làm cách mạng là ai nếu không phải là tầng lớp nghèo khổ bị áp bức, bóc lột đến cùng cực, không còn con đường nào khác là phải tự vùng lên để giải phóng cuộc đời mình? Nếu như lúc còn sống họ chưa thật sự hiểu nhau, gắn bó với nhau thì lúc chết, nghĩa địa này là nơi họ được ở gần nhau.

Hai bà mẹ cùng ra thăm mộ con trong tiết Thanh minh. Đó là bà Hoa, mẹ của Thuyên và bà mẹ của Hạ Du – tử tù chết chém. Bà Hoa đặt lễ vật trước mộ con, khấn vái rồi khóc lóc một hồi. Bà kia cũng làm như vậy trước mộ con mình, chỉ khác là mộ của Thuyên ở bên phải đường mòn, còn ngôi mộ kia thì nằm bên trái đường mòn, gần như đối diện nhau. Tình huống này đã tác động rất mạnh tới suy nghĩ và cảm xúc của người đọc. Cả những người đã chết và những người đang sống đều là nạn nhân đau khổ, đáng thương của xã hội phong kiến Trung Quốc hủ bại, bế tắc đương thời.

Câu hỏi đẩy ngạc nhiên và băn khoăn của bà mẹ Hạ Du: Thế này là thế nào ? khỉ nhìn thấy trên nấm mộ con trai mình có những cánh hoa trắng hoa hồng… không nhiêu lắm, xếp thành vòng tròn tròn, không lấy gì làm đẹp, những cũng chỉnh tề lặp lại hai lần gợi nhiều day dứt. Câu hỏi ấy thể hiện thái độ khó hiểu của bà mẹ trước hành động tham gia cách mạng và cái chết bi thảm của con trai mình; đồng thời chất chứa cảm xúc chua xót, đau khổ và tự trách.

Đó không chì là câu hỏi dành riêng cho bà mẹ Hạ Du mà còn dành cho tất cả mọi người. Ai đã đến đây? Chắc chắn đó là đồng chí của Hạ Du, hoặc là người có cảm tình với cách mạng. Họ đã bất chấp luật lệ nghiệt ngã của chính quyền, vẫn can đảm bày tỏ tỉnh cảm của mình đối với cách mạng. Họ dám đến viếng mộ anh và còn kính cẩn đặt lên đó một vòng hoa tươi: …hoa trắng hoa hồng xen lẫn nhau, nằm khoanh trên nấm mộ khum khum.

Một trong số những người không sợ liên liên chính là Lỗ Tấn. Nhà văn đã bày tò thái độ kính trọng đối với các chiến sĩ của phong trào cách mạng Ngũ Tứ. Ông đã đặt vòng hoa tưởng niệm trên mộ Hạ Du. Đó cũng là cách ông nêu ra vấn đề cấp thiết là phải có một phương thuốc đặc trị để cứu chữa “căn bệnh tinh thần” của người Trung Quốc. Phương thuốc đó quyết không phải là cái gì khác ngoài con đường cách mạng, nhưng không nửa vời như cuộc cách mạng Tân Hợi mà là cuộc cách mạng triệt để của quần chúng và vì quần chúng.

Hình ảnh vòng hoa trên mộ Hạ Du còn chứng tỏ nhà văn Lỗ Tấn vẫn ấp ủ hi vọng vào ngày mai tươi sáng, cho đù những người tham gia phong trào cách mạng Ngũ Tứ đang bị chính quyền ráo riết khủng bố và bản thân tác giả cũng đang ở tâm trạng đau đớn, bàng hoàng. Nó làm cho cái chết của Hạ Du bớt phần bi thảm bởi vì dù sao thì cũng có người xúc động và hiểu được phần nào ý nghĩa cái chết của anh. Đó cũng là niềm an ủi cho những dũng sĩ đang bôn ba trong chốn quạnh hiu. (Cách gọi của Lỗ Tấn đối với những người tham gia phong trào cách mạng Ngũ Tứ).

Câu chuyện về Thuốc được miêu tả ở hai thời điểm là mùa thu và mùa xuân. Hạ Du và Thuyên chết vào mùa thu, đồng nghĩa với sự tàn lụi. Hai cái chết của hai người trai trẻ có số phận khác nhau và cách họ chết cũng không giống nhau. Thế nhưng, đến mùa xuân, hai bà mẹ có chung nỗi đau mất con dường như đã đồng cảm với nhau. Đặt câu chuyện vào thời điểm của hai mùa : một mùa có tính chất tàn tạ, một mùa có tính chất hồi sinh, tốc giả dường như muốn gửi gắm vào đó niềm hi vọng về sự đổi thay tất yếu. Dù không có những biểu hiện thật rõ ràng, song với cách kết cấu và thời gian nghệ thuật đầy ý nghĩa tượng trưng, tác giả đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin, một niềm hi vọng về tương lai tươi sáng của dân tộc mình.

Truyện ngắn Thuốc tiêu biểu cho bút pháp hiện thực tỉnh táo, khách quan của Lỗ Tấn. Cốt truyện dung dị nhưng độc đáo ở khả năng lựa chọn các tình tiết, ở cách sắp xếp thời gian nghệ thuật và đặc biệt là ở khả năng tạo ra tính đa nghĩa của ngôn từ và hình tượng. Câu chuyện có chung một âm điệu trầm buồn thể hiện sự suy tư, lo lắng, day dứt đầy tinh thần trách nhiệm của Lỗ Tấn trước số phận và tương lai của dân tộc mình. Có thể coi tác phẩm này giống như con dao mổ sắc bén trong tay một bác sĩ tài ba, mạnh dạn cắt bỏ những khối u ác tính về tinh thần của xã hội đương thời để cứu lấy dân tộc Trung Hoa. Nhà văn Lỗ Tấn xứng đáng là cây đại thụ của văn học Trung Quốc và Danh nhân văn hóa thế giới.

Hùng Cường

Nguồn Đắk Nông: https://baodaknong.vn/ngu-van-12-bai-van-mau-tim-hieu-y-nghia-va-gia-tri-cua-truyen-ngan-thuoc-lo-tan-200184.html